Simeon Sakskoburggotski
From Wikipedia, the free encyclopedia
Simeon Borisov Sakskoburggotski (tiếng Bulgaria: Симеон Борисов Сакскобургготски, chuyển tự Simeon Borisov Sakskoburggotski, [simeˈɔn boˈrisof sakskoburˈɡɔtski]; sinh ngày 16 tháng 6 năm 1937) là một chính trị gia người Bulgaria, và là sa hoàng cuối cùng của Vương quốc Bulgaria với vương hiệu là Simeon II từ 1943 đến 1946.[1] Ông được sáu tuổi khi cha ông là Boris III của Bulgaria qua đời năm 1943. Quyền lực hoàng gia được thực thi bởi một hội đồng nhiếp chính thay mặt ông do chú của Simeon là Kiril, Thân vương xứ Preslav, Tướng Nikola Mihov và thủ tướng Bogdan Filov lãnh đạo. Năm 1946, chế độ quân chủ bị bãi bỏ bởi cuộc trưng cầu dân ý, và Simeon bị buộc phải sống lưu vong, lúc đó ông mới 9 tuổi.
Simeon Sakskoburggotski | |
---|---|
Симеон Борисов Сакскобургготски | |
Simeon in 2015 | |
Chức vụ | |
Thủ tướng Bulgaria thứ 48 | |
Nhiệm kỳ | 24 tháng 7 năm 2001 – 17 tháng 8 năm 2005 |
Tiền nhiệm | Ivan Kostov |
Kế nhiệm | Sergey Stanishev |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 16 tháng 6, 1937 (87 tuổi) Vrana Palace, Sofia, Vương quốc Bulgaria |
Đảng chính trị | Độc lập (2009–nay) |
Đảng khác | Phong trào quốc gia vì sự Ổn định và Tiến bộ (2001–2009) |
Cha mẹ | Boris III của Bulgaria Giovanna của Ý |
Con cái | Kardam, Thân vương xứ Tarnovo Kyril, Thân vương xứ Preslav Kubrat, Thân vương xứ Panagyurishte Konstantin-Assen, Thân vương xứ Vidin Vương nữ Kalina, Nữ công tước xứ Murany |
Alma mater | Valley Forge Military Academy and College |
Sa hoàng Bulgaria | |
Tại vị | 28 tháng 8 năm 1943 – 15 tháng 9 năm 1946 Hội đồng nhiếp chính |
Nhiếp chính | See list
|
Tiền nhiệm | Boris III |
Kế nhiệm | Chế độ quân chủ bị bãi bỏ Vasil Kolarov (as Quyền Tổng thống) |
Premiers | See list
|
Thông tin chung | |
Sinh | {{{nơi sinh}}} |
Hoàng tộc | Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry |
Tôn giáo | Chính thống giáo phương Đông |
Chữ ký | |
Ông quay trở về Bulgaria vào năm 1996, thành lập đảng chính trị Phong trào Quốc gia vì Ổn định và Tiến bộ (NMSP), được bầu và giữ ghế Thủ tướng Cộng hòa Bulgaria từ tháng 7 năm 2001 đến tháng 8 năm 2005.[2] Trong cuộc bầu cử tiếp theo, với tư cách là lãnh đạo của NMSP, ông đã tham gia vào chính phủ liên minh với Đảng Xã hội Bulgaria. Năm 2009, sau khi NMSP không giành được ghế nào trong Quốc hội, ông rời bỏ chính trường.
Ông, cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, là một trong hai người duy nhất còn sống từng là nguyên thủ quốc gia từ thời Thế chiến thứ hai, mặc dù cả hai đều giữ vai trò chủ yếu mang tính biểu tượng trong quan điểm chính phủ của họ.