Sao Diêm Vương
hành tinh lùn trong vành đai Kuiper của Hệ mặt trời / From Wikipedia, the free encyclopedia
Sao Diêm Vương (Pluto) hay Diêm Vương tinh (định danh hành tinh vi hình: 134340 Pluto) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật thể nặng thứ mười trực tiếp quay quanh Mặt Trời.
Bán cầu Bắc của Sao Diêm Vương có màu sắc thực, được chụp bởi tàu thăm dò New Horizons của NASA vào năm 2015[lower-alpha 1] | |||||||||
Khám phá | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Khám phá bởi | Clyde W. Tombaugh | ||||||||
Nơi khám phá | Đài thiên văn Lowell | ||||||||
Ngày phát hiện | 18 tháng 2 năm 1930 | ||||||||
Tên định danh | |||||||||
Tên định danh | (134340) Pluto | ||||||||
Phiên âm | /ˈpluːtoʊ/ (ngheⓘ) | ||||||||
Đặt tên theo | Pluto | ||||||||
Tính từ | Plutonian | ||||||||
Đặc trưng quỹ đạo[1][lower-alpha 2] | |||||||||
Kỷ nguyên J2000 | |||||||||
Điểm viễn nhật |
| ||||||||
Điểm cận nhật | |||||||||
| |||||||||
Độ lệch tâm | 0,2488 | ||||||||
366,73 ngày[2] | |||||||||
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 4,67 km/s[2] | ||||||||
14,53 độ | |||||||||
Độ nghiêng quỹ đạo |
| ||||||||
110,299° | |||||||||
113,834° | |||||||||
Vệ tinh đã biết | 5 | ||||||||
Đặc trưng vật lý | |||||||||
Bán kính trung bình |
| ||||||||
Độ dẹt | <1%[6] | ||||||||
| |||||||||
Thể tích |
| ||||||||
Khối lượng |
| ||||||||
Mật độ trung bình | 1,860 ± 0,006 g/cm³[6] | ||||||||
| |||||||||
1,212 km/s [lower-alpha 6] | |||||||||
| |||||||||
Vận tốc quay tại xích đạo | 47,18 km/h | ||||||||
122,53 ° (to orbit)[2] | |||||||||
Xích kinh cực Bắc | 132,993°[7] | ||||||||
Xích vĩ cực Bắc | −6,163°[7] | ||||||||
Suất phản chiếu | 0,49 tới 0,66 (hình học, thay đổi tới 35%)[2][8] | ||||||||
| |||||||||
13,65[2] tới 16,3[9] (trung bình là 15,1)[2] | |||||||||
−0,7[10] | |||||||||
0,06″ tới 0,11″[2][lower-alpha 7] | |||||||||
Khí quyển | |||||||||
Áp suất bề mặt | 1 Pa (2015)[6][11] | ||||||||
Thành phần khí quyển | Nitrogen, methane, carbon monoxit[12] |
Trước kia sao Diêm Vương từng được xếp hạng là một hành tinh, nhưng hiện nay Sao Diêm Vương được coi là thành viên lớn nhất của một vùng riêng biệt được gọi là Vành đai Kuiper.[13] Tương tự như các thành viên khác của vành đai này, nó chủ yếu gồm đá với băng và có kích thước khá nhỏ: xấp xỉ một phần năm khối lượng và một phần ba thể tích Mặt Trăng của Trái Đất. Sao Diêm Vương có quỹ đạo với độ lệch tâm lớn và rất nghiêng. Độ lệch tâm khiến nó có thể có khoảng cách từ 30 tới 49 AU (4.4—7.4 tỷ km) từ Mặt Trời, nên thỉnh thoảng Sao Diêm Vương ở gần Mặt Trời hơn Sao Hải Vương. Sao Diêm Vương và vệ tinh lớn nhất của nó, Charon, thường được coi là một hệ đôi bởi khối tâm của các quỹ đạo của chúng không nằm trong bất kỳ một vật thể nào.[14] Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) vẫn chưa chính thức hoá một định nghĩa cho các hệ hành tinh lùn đôi, và cho tới khi họ thông qua một quyết định như vậy, Charon vẫn được xếp hạng là một vệ tinh của Sao Diêm Vương.[15] Sao Diêm Vương cũng có ba vệ tinh nhỏ hơn khác là Nix, Hydra, được khám phá năm 2005,[16] và vệ tinh P4 được khám phá năm 2011.[17]
Cũng như Sao Kim và Sao Thiên Vương, Sao Diêm Vương tự quay theo chiều ngược. Chu kỳ tự quay của nó là -6,387 230 ngày hay -6 ngày 9 giờ 17 phút 36 giây.
Từ khi được phát hiện năm 1930 cho tới tận năm 2006, Sao Diêm Vương vẫn được tính là hành tinh thứ chín của Hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, nhiều vật thể tương tự Sao Diêm Vương đã được phát hiện ở phía ngoài Hệ Mặt Trời, đáng chú ý nhất là vật thể đĩa phân tán Eris, có khối lượng lớn hơn Sao Diêm Vương 27%.[18] Ngày 24 tháng 8 năm 2006 Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đã lần đầu tiên định nghĩa "hành tinh". Định nghĩa này không bao gồm Sao Diêm Vương, nó bị Hiệp hội Thiên văn Quốc tế xếp loại lại như một thành viên của loại mới là các hành tinh lùn cùng với Eris và Ceres.[19] Sau khi được tái xếp hạng, Sao Diêm Vương được thêm vào danh sách các tiểu hành tinh và được định danh bằng số 134340.[20][21] Một số nhà khoa học vẫn cho rằng nó cần được xếp vào nhóm hành tinh.[22]
Vào ngày 14 tháng 7 năm 2015, New Horizons trở thành phi thuyền đầu tiên bay ngang qua Sao Diêm Vương và các vệ tinh của nó[23][24], thực hiện các đo đạc và ghi lại những hình ảnh một cách chi tiết.[25][26]