![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/47/Sagiri1.jpg/640px-Sagiri1.jpg&w=640&q=50)
Sagiri (tàu khu trục Nhật)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Sagiri (tiếng Nhật: 狭霧) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp Fubuki bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc. Khi được đưa vào hoạt động, những con tàu này là những tàu khu trục mạnh mẽ nhất thế giới.[2] Chúng phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu trong những năm 1930, và tiếp tục là những vũ khí lợi hại trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Sagiri bị mất sớm trong cuộc chiến tranh, khi nó bị tàu ngầm Hà Lan K XVI đánh chìm vào ngày 24 tháng 12 năm 1941 trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Thông tin Nhanh Lịch sử, Nhật Bản ...
![]() Tàu khu trục Sagiri trên đường đi vào ngày 10 tháng 8 năm 1936 | |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | Sagiri |
Đặt hàng | Năm tài chính 1923 |
Xưởng đóng tàu | Uraga Dock Company |
Số hiệu xưởng đóng tàu | Tàu khu trục số 50 |
Đặt lườn | 28 tháng 3 năm 1929 |
Hạ thủy | 23 tháng 12 năm 1929 |
Nhập biên chế | 31 tháng 1 năm 1931 |
Xóa đăng bạ | 15 tháng 1 năm 1942 |
Số phận | Bị tàu ngầm Hà Lan K XVI đánh chìm vào ngày 24 tháng 12 năm 1941 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Fubuki[1] |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 10,4 m (34 ft 1 in) |
Mớn nước | 3,2 m (10 ft 6 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 70 km/h (38 knot) |
Tầm xa | 9.200 km ở tốc độ 26 km/h (5,000 hải lý ở tốc độ 14 knot) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 219 |
Vũ khí |
|
Đóng
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/68/Sagiri2.jpg/640px-Sagiri2.jpg)
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/2/2f/Sagiri.jpg/320px-Sagiri.jpg)
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/f/f4/HNMS_K-XVI.jpg/320px-HNMS_K-XVI.jpg)