Rối loạn lưỡng cực
rối loạn tâm thần gây ra thời kỳ trầm cảm và tâm trạng tăng cao bất thường / From Wikipedia, the free encyclopedia
Rối loạn lưỡng cực (tiếng Anh: bipolar disorder), từng được gọi là bệnh hưng trầm cảm (tiếng Anh: manic depression), là một bệnh tâm thần có đặc trưng là các giai đoạn trầm cảm đi kèm với các giai đoạn tâm trạng hưng phấn ở mức bất thường kéo dài từ nhiều ngày đến nhiều tuần.[4][5][7]
Rối loạn lưỡng cực | |
---|---|
Tên khác | Rối loạn xúc động lưỡng cực,[1] bệnh lưỡng cực,[2] hưng trầm cảm, rối loạn hưng trầm cảm, bệnh hưng trầm cảm,[3] loạn thần hưng trầm cảm, loạn tâm thần tuần hoàn[3] |
Đặc trưng của rối loạn lưỡng cực là các giai đoạn trầm cảm và hưng cảm. | |
Khoa/Ngành | Tâm thần |
Triệu chứng | Các giai đoạn trầm cảm và tâm trạng hưng phấn[4][5] |
Biến chứng | Tự sát, tự hại[4] |
Khởi phát | 25 tuổi[4] |
Loại | Rối loạn lưỡng cực I, rối loạn lưỡng cực II, khác[5] |
Nguyên nhân | Môi trường và di truyền[4] |
Yếu tố nguy cơ | Tiền sử gia đình, bị lạm dụng lúc nhỏ, căng thẳng kéo dài[4] |
Chẩn đoán phân biệt | Rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn nhân cách, tâm thần phân liệt, rối loạn sử dụng chất gây nghiện[4] |
Điều trị | Trị liệu tâm lý, thuốc[4] |
Thuốc | Lithium, thuốc chống loạn thần, thuốc chống co giật[4] |
Dịch tễ | 1–3%[4][6] |
Nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nghiêm trọng hoặc có liên hệ với loạn thần thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm; nếu tâm trạng người bệnh hưng phấn ở mức nhẹ hơn thì giai đoạn đó được gọi là hưng cảm nhẹ.[4] Trong các giai đoạn hưng cảm, người bệnh có những hành vi hoặc cảm xúc hưng phấn, vui vẻ hoặc cáu bẳn một cách bất thường,[4] và thường đưa ra những quyết định bộc phát mà không quan tâm đến hậu quả.[5] Trong các giai đoạn hưng cảm, người bệnh cũng thường cảm thấy ít buồn ngủ hơn bình thường .[5]
Trong các giai đoạn trầm cảm, người bệnh có thể khóc, có cái nhìn tiêu cực về cuộc sống và cảm thấy khó nhìn thẳng vào mắt người khác.[4] Người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tự sát cao; trong vòng 20 năm, 6% người bệnh tử vong vì tự sát, trong khi 30–40% người bệnh có hành vi tự hành hạ bản thân.[4] Các vấn đề khác về sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như rối loạn lo âu hay rối loạn sử dụng chất gây nghiện, thường được liên hệ với rối loạn lưỡng cực.[4]
Mặc dù nguyên nhân dẫn đến rối loạn lưỡng cực vẫn chưa được hiểu rõ, cả yếu tố di truyền và môi trường đều được cho là đóng vai trò trong việc gây ra bệnh.[4] Có nhiều gen có khả năng đóng góp vào sự phát triển của bệnh, trong đó mỗi gen gây tác động một ít.[4][8] Các yếu tố di truyền quyết định 70–90% nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực.[9][10] Các yếu tố nguy cơ mang tính môi trường bao gồm việc bị lạm dụng lúc nhỏ và căng thẳng kéo dài.[4] Rối loạn lưỡng cực được xếp vào loại I nếu người bệnh đã trải qua ít nhất một pha hưng cảm (dù đã trải qua pha trầm cảm hay chưa), và được xếp vào loại II nếu người bệnh đã trải qua ít nhất một pha hưng cảm nhẹ (nhưng chưa trải qua pha hưng cảm nặng nào) và một pha trầm cảm.[5] Nếu nguyên nhân của các triệu chứng là thuốc hoặc các bệnh khác thì người bệnh không được chẩn đoán là mắc rối loạn lưỡng cực.[5] Các chứng bệnh khác có những triệu chứng trùng lặp với rối loạn lưỡng cực bao gồm rối loạn tăng động giảm chú ý, rối loạn nhân cách, tâm thần phân liệt và rối loạn sử dụng chất gây nghiện, cũng như nhiều bệnh khác.[4] Việc chẩn đoán rối loạn lưỡng cực không yêu cầu xét nghiệm, tuy nhiên, có thể chỉ định xét nghiệm máu hoặc chẩn đoán bằng hình ảnh nhằm loại trừ các vấn đề khác.[11]
Thuốc ổn định tâm trạng—lithium và một số thuốc chống co giật như valproate và carbamazepine—là cách phòng ngừa tái phát bệnh chủ yếu.[12] Thuốc chống loạn thần được chỉ định trong các pha hưng cảm nghiêm trọng cũng như khi thuốc ổn định tâm trạng bị kháng hoặc không hiệu quả.[12] Biện pháp tâm lý trị liệu đã được cho thấy là có thể cải thiện tình trạng bệnh.[13] Việc sử dụng thuốc chống trầm cảm trong các pha trầm cảm gặp phải tranh cãi—chúng có thể mang lại hiệu quả nhưng đã cho thấy là sẽ kích thích các pha hưng cảm.[14] Việc điều trị các pha trầm cảm thường khó khăn.[12] Liệu pháp sốc điện có hiệu quả trong các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm nghiêm trọng, đặc biệt là với tình trạng loạn tâm thần hoặc căng trương lực.[lower-alpha 1][12] Người bệnh có thể cần nhập viện nếu có khả năng gây nguy hiểm cho chính mình hoặc người khác; họ có thể phải được cưỡng ép điều trị nếu từ chối điều trị.[4]
Ước tính 1% dân số thế giới mắc rối loạn lưỡng cực.[12] Tại Hoa Kỳ, 3% dân số được ước tính là chịu ảnh hưởng của bệnh ít nhất một lần trong đời; tỷ lệ mắc bệnh dường như là tương đương giữa nam và nữ.[6][16] Các triệu chứng thường xuất hiện từ độ tuổi 20; thời điểm khởi phát càng sớm thì tiên lượng càng xấu.[17] Khoảng một phần tư đến một phần ba số người mắc rối loạn lưỡng cực gặp phải các vấn đề về tài chính, xã hội hoặc công việc vì tình trạng bệnh của mình.[4] Rối loạn lưỡng cực nằm trong số 20 nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tật nguyền trên toàn thế giới và gây ra sự tốn kém lớn cho xã hội.[18] Do lối sống và tác dụng phụ của thuốc, người mắc rối loạn lưỡng cực có nguy cơ tử vong vì những nguyên nhân tự nhiên như bệnh động mạch vành cao gấp đôi so với dân số nói chung.[4]