![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/00/Portrait_of_Ph%25E1%25BA%25A1m_Ng%25E1%25BB%258Dc_Chi%252C_bishop_of_B%25C3%25B9i_Chu.jpg/640px-Portrait_of_Ph%25E1%25BA%25A1m_Ng%25E1%25BB%258Dc_Chi%252C_bishop_of_B%25C3%25B9i_Chu.jpg&w=640&q=50)
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi
giám mục Công giáo người Việt Nam / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (14 tháng 5 năm 1909 – 21 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn và Giáo phận Đà Nẵng. Trước đó, ông cũng là Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu. Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Vâng lời Thầy, con thả lưới".
Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi | |
---|---|
Giám mục Tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng (1963–1988) | |
![]() | |
Giáo hội | Công giáo Rôma |
Chức vụ chính yếu
| |
Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng | |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Huế |
Tòa | Giáo phận Đà Nẵng |
Bổ nhiệm | Ngày 18 tháng 1 năm 1963 |
Tựu nhiệm | Ngày 1 tháng 5 năm 1963 |
Hết nhiệm | Ngày 21 tháng 1 năm 1988 |
Tiền nhiệm | Tiên khởi |
Kế nhiệm | Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách |
Giám mục chính tòa Giáo phận Qui Nhơn | |
Giáo tỉnh | Giáo tỉnh Huế |
Tòa | Giáo phận Qui Nhơn |
Bổ nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Tựu nhiệm | Ngày 25 tháng 4 năm 1961 |
Hết nhiệm | Ngày 18 tháng 1 năm 1963 |
Tiền nhiệm | Chức vụ được thiết lập Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi Đại diện Tông tòa Qui Nhơn |
Kế nhiệm | Đa Minh Hoàng Văn Đoàn |
Đại diện Tông tòa Địa phận Bùi Chu | |
Tòa | Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto |
Bổ nhiệm | Ngày 3 tháng 2 năm 1950 |
Hết nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Tiền nhiệm | Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn |
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ Giuse Maria Phạm Năng Tĩnh Giám mục Chính tòa Bùi Chu |
Giám quản Tông Tòa Địa phận Qui Nhơn | |
Bổ nhiệm | Ngày 5 tháng 7 năm 1957 |
Hết nhiệm | Ngày 24 tháng 11 năm 1960 |
Tiền nhiệm | Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi |
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ Đa Minh Hoàng Văn Đoàn Giám mục Chính tòa Qui Nhơn |
Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam | |
Tựu nhiệm | Tháng 1 năm 1968 |
Hết nhiệm | Không rõ (1977?) |
Tiền nhiệm | Tiên khởi |
Kế nhiệm | Philipphê Nguyễn Kim Điền Phaolô Nguyễn Văn Bình |
Các chức khác | Giám mục Hiệu tòa Sozopolis in Haemimonto (1950–1960) |
Truyền chức
| |
Thụ phong Linh mục | Ngày 23 tháng 12 năm 1933 bởi Hồng y Marchelli Selvaggiani |
Tấn phong | Ngày 4 tháng 8 năm 1950 bởi Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ (chủ phong); Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục và Giám mục Santos Ubierna Ninh (phụ phong) |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | (1909-05-14)14 tháng 5 năm 1909 Ninh Bình, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 21 tháng 1 năm 1988(1988-01-21) (78 tuổi) Duy Xuyên, Quảng Nam, Việt Nam |
Nơi an táng | Vườn Nghĩa, phía trái nhà thờ Trà Kiệu. |
Quốc tịch | Việt Nam |
Cha mẹ | Phêrô Phạm Xuân Quế |
Giáo dục | Cử nhân Thần học Cử nhân Triết học Tiến sĩ Triết học |
Alma mater | Đại học Apollinaire Đại học Công giáo Paris |
Khẩu hiệu | "Vâng lời Thầy con thả lưới" |
Cách xưng hô với Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi | |
---|---|
![]() ![]() | |
Danh hiệu | Đức Giám mục |
Trang trọng | Đức Giám mục, Đức Cha |
Thân mật | Cha |
Khẩu hiệu | In verbo Tuo laxabo rete |
Tòa | Giáo phận Đà Nẵng Giáo phận Qui Nhơn |
Sinh trong một gia tộc có nhiều người chọn theo con đường tu trì Công giáo, cậu Phạm Ngọc Chi nhanh chóng được chọn đi theo việc tu trì. Với kết quả tốt tại Tiểu chủng viện, chủng sinh Chi được cử đi học trường Truyền giáo Rôma năm 18 tuổi, và được truyền chức linh mục năm 1933. Trong thời kỳ học tập tại ngoại quốc, chủng sinh và sau này là linh mục Chi tốt nghiệp hai văn bằng Cử nhân Thần học và Cử nhân Triết học, cùng văn bằng Tiến sĩ Triết học.
Trở về Việt Nam vào năm 1936, linh mục Chi dần thăng tiến trong các chức vụ tôn giáo tại Địa phận Phát Diệm: giáo sư, phó giám đốc và Giám đốc Đại chủng viện Phát Diệm, cùng cố vấn Giám mục Lê Hữu Từ. Năm 1950, Toà Thánh Vatican chọn linh mục Phạm Ngọc Chi làm giám mục Đại diện Tông Toà Địa phận Bùi Chu, vốn trống toà từ cuối năm 1948.
Trong tư cách giám mục và với vị thế là một người có quan điểm chống Cộng, Giám mục Chi đã có những hoạt động tôn giáo và chính trị phức tạp trong khuôn khổ Chiến tranh Đông Dương. Ông di cư vào miền Nam Việt Nam, lần lượt làm Phụ trách Di dân (1954-1957), Đặc uỷ Tông Toà Công giáo Tiến Hành, Giám quản Địa phận Qui Nhơn. Với việc thiết lập hàng giáo phẩm Công giáo tại Việt Nam, ông trở thành Giám mục Tiên khởi Qui Nhơn (1960) và sau này là Giám mục Tiên khởi Đà Nẵng (1963). Bốn năm cuối đời, giám mục Chi bị quản thúc tại Trà Kiệu cho đến khi qua đời năm 1988.