![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0b/Chromosome.svg/langvi-640px-Chromosome.svg.png&w=640&q=50)
Nhiễm sắc tử
From Wikipedia, the free encyclopedia
Nhiễm sắc tử hoặc crômatit là một trong hai bản sao của một nhiễm sắc thể được sao chép, cả hai crômatit vẫn tiếp giáp với nhau thành một nhiễm sắc thể chính thức nhờ tâm động. Thuật ngữ này trong tiếng Anh là chromatid, vốn gốc từ chữ Hy Lạp khrōmat (là "màu") + hậu tố -id (sợi).[1][2]
![Thumb image](http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0b/Chromosome.svg/640px-Chromosome.svg.png)
Trước khi nhân đôi (tự sao chép) thì mỗi nhiễm sắc thể chỉ gồm một phân tử DNA. Sau khi nhân đôi - ở kì trung gian - mà cơ sở là sự tự sao của DNA tạo nên nó, mỗi nhiễm sắc thể lúc này gồm hai phân tử DNA chung nhau một tâm động, gọi là nhiễm sắc thể kép, trong đó mỗi bản sao được gọi là crômatit.[3] Trong các giai đoạn sau của phân chia tế bào, trạng thái nhiễm sắc thể kép này vẫn tồn tại, cho đến kì sau thì mỗi crômatit sẽ được phân li do tâm động tách đôi, trở thành các nhiễm sắc thể đơn riêng biệt.[4][5][6]
Các cặp crômatit thường giống hệt nhau về trình tự nuclêôtit, tuy nhiên, nếu đột biến xuất hiện, chúng sẽ có những khác biệt. Việc ghép cặp của các crômatit không nên nhầm lẫn với mức bội thể (Ploidy) của một sinh vật, đó là số lượng các phiên bản tương đồng của nhiễm sắc thể.
Chất nhiễm sắc có cấu trúc giống sợi trong kỳ đầu ở giai đoạn đầu của quá trình kết đặc hay co xoắn DNA. Trong kỳ giữa, thì chúng được gọi là crômatit.