Lực lượng Vũ trang Quốc gia Indonesia
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quân đội Indonesia, tên chính thức là Lực lượng vũ trang Quốc gia Indonesia (tiếng Indonesia: Tentara Nasional Indonesia, viết tắt là TNI, tên trước đây là Angkatan Bersenjata Republik Indonesia, viết tắt là ABRI) có tổng quân số khoảng 361.823 người, gồm Lục quân (TNI-AD), Hải quân (TNI-AL), và Không quân (TNI-AU). Lục quân là nhánh lớn nhất trong quân đội Indonesia, với quân số vào khoảng 276.953 người đang phục vụ. Chi phí quốc phòng trong ngân sách Nhà nước chỉ chiếm 3% GDP nhưng được bổ sung bởi các hoạt động kinh doanh của quân đội và các quỹ tài trợ.
Lực lượng vũ trang Quốc gia Indonesia | |
---|---|
Tentara Nasional Indonesia | |
Phù hiệu của Quân đội Quốc gia Indonesia | |
Các nhánh phục vụ | Lục quân (TNI AD) Không quân (TNI AU) |
Sở chỉ huy | Jakarta |
Lãnh đạo | |
Tổng tư lệnh | Tổng thống Joko Widodo |
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng | Prabowo Subianto |
Tư lệnh Các Lực lượng Vũ trang Quốc gia | Đại tướng Hadi Tjahjanto |
Nhân lực | |
Đạt tuổi nghĩa vụ quân sự hàng năm | (ước tính 2008.[1]) |
Số quân tại ngũ | 476,000 người |
Phí tổn | |
Ngân sách | $8.4 tỉ USD (2013) |
Phần trăm GDP | 1.0% (2013) |
Công nghiệp | |
Nhà cung cấp nội địa | PT Pindad PT PAL LAPAN IAe PT Lundin Industry Invest PT DAHANA PT SRITEX PT Sentra Surya Eka Jaya (SSE) CV Maju Mapan PT Fista Bahari Internusa PT Sari Bahari Malang PT Palindo Marine Shipyard[2] PT Len Industri (Persero) PT CMI Teknologi[3] PT. Dok dan Perkapalan (DKB) Kodja Bahari PT. Tesco Indomaritim |
Nhà cung cấp nước ngoài | Pháp |
Bài viết liên quan | |
Lịch sử | Lịch sử quân sự Indonesia Gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Cách mạng Quốc gia Indonesia Hồi giáo Darul(Indonesia) Cộng hòa Nam Maluku Chính phủ Cách mạng Indonesia Permesta Sáp nhập Tây Papua vào Indonesia Chiến dịch Trikora Đối đầu Indonesia-Malaysia Indonesia xâm chiếm Đông Timor Nổi dậy ở Aceh Phong trào giải phóng Papua Indonesian tấn công Aceh 2003–2004 |
Cảnh sát Quốc gia Indonesia cũng đã từng là một nhánh của lực lượng vũ trang trong nhiều năm. Lực lượng cảnh sát chính thức được tách ra khỏi quân đội vào tháng 4 năm 1999, quá trình này hoàn tất vào năm 2000. Với quân số 150.000 người, lực lượng cảnh sát chiếm tỷ lệ trong tổng dân số nhỏ hơn nhiều so với hầu hết các nước khác. Tổng quân số của lực lượng cảnh sát quốc gia và cảnh sát địa phương năm 2006 vào khoảng 470.000 người.
Sau trận sóng thần năm 2004 ở Aceh, chính phủ Hoa Kỳ đã tạm đình chỉ lệnh cấm các trang bị trái phép và các xe quân sự để hỗ trợ cho các nỗ lực cứu trợ nhân đạo sau thảm họa sóng thần các vùng Aceh và Nias ở Indonesia.
Vào 22 tháng 11 năm 2005, Hoa Kỳ tuyên bố quan hệ quân sự với Indonesia sẽ được khôi phục. Một quyết định kết thúc 6 năm cho việc cấm buôn bán vũ trang do Hoa Kỳ áp đặt. Trang bị vũ khí: Lục quân: 476 xe tăng, 565 xe thiết giáp, 333 pháo xe kéo. Không quân: 90 máy bay chiến đấu, bao gồm một số máy bay: 10 F-16, 15 F-5, 35 Hawk109/209, 4 Su-27 Hải quân: 17 tàu Frigate, 16 tàu hộ vệ, 4 tàu tên lửa, 16 tàu chiến nhỏ, 2 tàu ngầm Type-209,9 trực thăng săn ngầm Wasp HAS-1.[4]