Lý Diệu Văn
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lý Diệu Văn (tiếng Trung: 李耀文; bính âm: Lĭ Yàowén; 1 tháng 5 năm 1918[1] – 10 tháng 4 năm 2018) là Đô đốc Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[2]
Lý Diệu Văn | |
---|---|
李耀文 | |
![]() Lý Diệu Văn năm 1955 | |
Chính ủy Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ Tháng 10 năm 1980 – Tháng 4 năm 1990 | |
Tiền nhiệm | Diệp Phi |
Kế nhiệm | Ngụy Kim Sơn |
Chính ủy Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Quốc phòng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ Tháng 4 năm 1977 – Tháng 1 năm 1980 | |
Đại sứ Trung Quốc tại Madagascar | |
Nhiệm kỳ 1975–1976 | |
Tiền nhiệm | Chức vụ mới |
Kế nhiệm | Điền Chí Đông |
Đại sứ Trung Quốc tại Tanzania | |
Nhiệm kỳ 1972–1975 | |
Tiền nhiệm | Trọng Hi Đông |
Kế nhiệm | Lưu Xuân |
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |
Nhiệm kỳ Tháng 7 năm 1970 – Tháng 4 năm 1972 | |
Phó Chính ủy Quân khu Tế Nam | |
Nhiệm kỳ Tháng 10 năm 1965 – Tháng 4 năm 1970 | |
Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Tế Nam | |
Nhiệm kỳ Tháng 5 năm 1955 – Tháng 1 năm 1968 | |
Tiền nhiệm | Chức vụ mới |
Kế nhiệm | Trần Kế Đức |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Trương Tích Thân (1918-05-01)1 tháng 5 năm 1918 trấn Thành Sơn, Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa Dân Quốc |
Mất | 10 tháng 4 năm 2018(2018-04-10) (99 tuổi) Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Trung Quốc |
Alma mater | Học viện Quân sự Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc |
Nghề nghiệp | Sĩ quan quân đội, nhà ngoại giao |
Tặng thưởng | Huy chương Sao đỏ Huân chương Độc lập và Tự do Huân chương Giải phóng |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | ![]() |
Phục vụ | ![]() |
Năm tại ngũ | 1980–1997 |
Cấp bậc | ![]() |
Chỉ huy | Quân khu Tế Nam |
Tham chiến | Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai Nội chiến Trung Quốc Chiến tranh Triều Tiên Trận chiến biển Trung Quốc-Việt Nam |
Lý Diệu Văn sinh tại Vinh Thành, tỉnh Sơn Đông, ông tham gia cách mạng ở tuổi 16 và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc ở tuổi 19 và đã chiến đấu nhiều trận đánh với tư cách là sĩ quan quân đội cấp cao của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong Nội chiến Trung Quốc, Chiến tranh Triều Tiên và trận chiến biển Trung Quốc-Việt Nam. Ông được trao tặng quân hàm Thiếu tướng ở tuổi 37 và quân hàm Thượng tướng tháng 9 năm 1988. Ông từng giữ chức vụ Chính ủy Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (Hải quân PLA) từ năm 1980 đến năm 1990, Phó Chính ủy Quân khu Tế Nam từ năm 1965 đến năm 1970 và Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Tế Nam từ năm 1955 đến năm 1968. Trong Cách mạng Văn hóa, ông gia nhập ngành ngoại giao và đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau ở Bộ Ngoại giao, trong đó có Thứ trưởng Bộ Ngoại giao (1970–1972), Đại sứ Trung Quốc tại Tanzania (1972–1975) và Đại sứ Trung Quốc tại Madagascar (1975–1976).[3]
Ông là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI, Ủy viên chính thức Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XII (1982 - 1987) và Ủy viên Ủy ban Cố vấn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.[4]