Khủng bố
hành động phá hoại hoặc sử dụng bạo lực và nỗi sợ hãi để cưỡng chế về chính trị, tôn giáo hoặc ý thức hệ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Theo định nghĩa khái quát nhất, khủng bố là việc sử dụng bạo lực và nỗi sợ hãi để đạt được một mục đích về mặt ý thức hệ. Thuật ngữ này được sử dụng chủ yếu để chỉ bạo lực có chủ ý trong thời bình hoặc trong bối cảnh chiến tranh chống lại những người không tham chiến (chủ yếu là dân thường và quân nhân trung lập).[1] Các thuật ngữ "terrorist" và "terrorism" để chỉ khủng bố có nguồn gốc trong cuộc Cách mạng Pháp vào cuối thế kỷ thứ 18[2] nhưng đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới và thu hút sự chú ý trên toàn cầu vào những năm 1970 trong cuộc xung đột Bắc Ireland, xung đột Basque, và xung đột Israel–Palestine. Việc sử dụng các cuộc tấn công tự sát gia tăng từ những năm 1980 trở đi được điển hình hoá bởi các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở Hoa Kỳ.
Trong cộng đồng quốc tế, khủng bố không có một định nghĩa có tính pháp luật hay hình sự rõ ràng nào.[3][4] Định nghĩa chung của chủ nghĩa khủng bố chỉ đề cập đến những hành vi bạo lực được dự định để tạo ra sự sợ hãi (khủng bố). tạo ra cho một mục tiêu tôn giáo, chính trị hay ý thức hệ; và cố tình nhắm vào các mục tiêu hoặc không quan tâm đến sự an toàn của những người không có khả năng tự vệ (ví dụ, nhân viên dân sự trung lập hay dân thường). Một số định nghĩa của khủng bố hiện nay bao gồm cả các hành vi bạo lực bất hợp pháp và chiến tranh. Việc sử dụng chiến thuật tương tự như của các tổ chức tội phạm để tống tiền hoặc để ép buộc người khác phải im lặng thường không được coi là khủng bố, mặc dù những hành động tương tự có thể được coi là khủng bố khi được thực hiện bởi một nhóm có động cơ chính trị. Sử dụng thuật ngữ này cũng bị chỉ trích vì việc sử dụng thái quá và thường xuyên của nó với các tổ chức khủng bố Hồi giáo hoặc Jihad, trong khi bỏ qua các tổ chức hoặc cá nhân khủng bố không phải Hồi giáo.[5][6]
Từ "khủng bố" mang nặng màu sắc chính trị, tâm lý, và gây nhiều tranh cãi,[7] và điều này tạo ra rất nhiều khó khăn trong việc cung cấp một định nghĩa chính xác. Một nghiên cứu về chủ nghĩa khủng bố trong chính trị đã kiểm tra hơn 100 định nghĩa về "khủng bố" tìm thấy 22 yếu tố định nghĩa riêng biệt (ví dụ như bạo lực, vũ lực, sợ hãi, đe dọa, sự phân biệt mục tiêu nạn nhân).[8][9] Trong một số trường hợp, cùng một nhóm vũ trang có thể được những người ủng hộ họ mô tả là "chiến sĩ đấu tranh vì tự do", trong khi đối thủ của họ thì coi đó là những kẻ khủng bố.[10] Khái niệm về khủng bố có thể gây tranh cãi vì nó thường được sử dụng bởi cơ quan nhà nước (và cá nhân được nhà nước hỗ trợ) để làm giảm tính chính danh của các đối thủ,[11] và có khả năng hợp pháp hóa việc sử dụng lực lượng vũ trang riêng của nhà nước để chống lại đối thủ (chính các lực lượng này có thể được đối thủ của nhà nước trên mô tả như là "khủng bố").[11][12] Đồng thời, ngược lại cũng có thể diễn ra khi các quốc gia thực hiện hoặc bị cáo buộc phạm vào tội khủng bố cấp nhà nước.[13]
Có nhiều ví dụ về sự tranh cãi khi coi ai hoặc hành động nào đó là "khủng bố" hay không. Chẳng hạn như nhà lãnh đạo Nam Phi, Nelson Mandela, trong quá khứ ông từng bị chính quyền phân biệt chủng tộc ở Nam Phi coi là khủng bố, nhưng ngày nay ông được xem là một nhà cách mạng đấu tranh vì người da đen[14] Hoặc nhân vật An Trọng Căn bị Nhật Bản coi là kẻ khủng bố vì đã ám sát thủ tướng Nhật là Ito Hirobumi, nhưng ở Hàn Quốc và Trung Quốc thì ông được ca ngợi là nhà ái quốc đã hy sinh thân mình để chống ách xâm lược của Nhật Bản. Trong Thế Chiến thứ II, việc Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki làm chết hàng trăm ngàn dân thường Nhật Bản để làm chính quyền Nhật khiếp sợ dẫn đến nhanh chóng đầu hàng cũng có thể bị xem là hành động khủng bố vì việc ném bom này nhắm vào mục tiêu dân sự chứ không phải quân sự với mục đích khiến đối phương sợ hãi.