Hosni Mubarak
From Wikipedia, the free encyclopedia
Muhammad Hosni Mubarak (tiếng Ả Rập: محمد حسنى سيد مبارك), tên đầy đủ: Muhammad Hosni Sayyid Mubarak, thường được gọi là Hosni Mubarak (ngày 4 tháng 5 năm 1928 - ngày 25 tháng 2 năm 2020), là Tổng thống Ai Cập từ ngày 6 tháng 10 năm 1981 đến ngày 11 tháng 2 năm 2011. Dưới sức ép biểu tình của quần chúng nhân dân, ngày 11 tháng 2 năm 2011, ông đã phải từ chức sau 30 năm cầm quyền (là Tổng thống nhờ đảo chính quân sự), trao lại quyền hành cho quân sự, chờ một cuộc tổng tuyển cử tự do vào tháng 9 năm 2011.[1]
Hosni Mubarak محمد حسنى سيد مبارك | |
---|---|
Tổng thống thứ tư của Ai Cập | |
Nhiệm kỳ 14 tháng 10 năm 1981 – 11 tháng 2 năm 2011 29 năm, 120 ngày | |
Thủ tướng | Bản thân Ahmad Fuad Mohieddin (1982–1984) Kamal Hassan Aly (1984–1985) Ali Lutfi Mahmoud (1985–1986) Atef Sedki (1986–1996) Kamal Ganzouri (1996–1999) Atef Abeid (1999–2004) Ahmed Nazif (2004–2011) Ahmed Shafik (2011) |
Phó Tổng thống | Omar Suleiman |
Tiền nhiệm | Sufi Abu Taleb (Quyền) |
Kế nhiệm | Mohamed Hussein Tantawi (Quyền) |
Thủ tướng Ai Cập | |
Nhiệm kỳ 7 tháng 10 năm 1981 – 2 tháng 1 năm 1982 87 ngày | |
Tổng thống | Sufi Abu Taleb (quyền) Bản thân |
Tiền nhiệm | Anwar Sadat |
Kế nhiệm | Ahmad Fuad Mohieddin |
Phó Tổng thống thứ 15 của Ai Cập | |
Nhiệm kỳ 16 tháng 4 năm 1975 – 14 tháng 10 năm 1981 6 năm, 181 ngày | |
Tổng thống | Anwar Sadat |
Tiền nhiệm | Hussein el-Shafei Mahmoud Fawzi |
Kế nhiệm | Omar Suleiman |
Tổng Thư ký Phong trào không liên kết | |
Nhiệm kỳ 16 tháng 7 năm 2009 – 11 tháng 2 năm 2011 1 năm, 210 ngày | |
Tiền nhiệm | Raúl Castro |
Kế nhiệm | Mohamed Hussein Tantawi (Quyền) |
Tư lệnh Không quân | |
Nhiệm kỳ 23 tháng 4 năm 1972 – 16 tháng 4 năm 1975 2 năm, 358 ngày | |
Tổng thống | Anwar Sadat |
Tiền nhiệm | Ali Mustafa Baghdady |
Kế nhiệm | Mahmoud Shaker |
Viện trưởng Học viện Không quân | |
Nhiệm kỳ 1967 – 1969 | |
Tiền nhiệm | Yahia Saleh Ai-Aldaros |
Kế nhiệm | Mahmoud Shaker |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 4 tháng 5 năm 1928 Kafr-El Meselha, Vương quốc Ai Cập |
Mất | 25 tháng 2 năm 2020 (91 tuổi) Cairo, Ai Cập |
Đảng chính trị | Đảng Dân chủ Dân tộc |
Phối ngẫu | Suzanne Thabet (1959–2020) |
Con cái | Alaa Gamal |
Alma mater | Học viện Quân sự Ai Cập Học viện Không quân Ai Cập Học viện Quân sự Frunze |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Ai Cập |
Phục vụ | Không quân Ai Cập |
Năm tại ngũ | 1950–1975 |
Cấp bậc | Thống chế không quân |
Chỉ huy | Không quân Ai Cập Học viện Không quân Ai Cập Căn cứ Không quân Beni Suef Căn cứ Không quân Tây Cairo |
Là một tín đồ Hồi giáo Sunni, gia nhập Đảng Dân chủ Dân tộc (Ai Cập), Mubarak được bổ nhiệm là Phó Tổng thống Ai Cập sau khi làm quan chức cấp cao của Không lực Ai Cập. Ông lên kế nhiệm chức Tổng thống sau vụ ám sát Tổng thống Anwar Al-Sadad vào ngày 6 tháng 10 năm 1981.
Ngày 25 tháng 1 năm 2011, một cuộc biểu tình lớn đã nổ ra ở trung tâm thủ đô Cairo đòi Mubarak phải từ chức ngay lập tức và kéo dài tới 10/02/2011.[2] Ngày 01/02/2011, Mubarak tuyên bố sẽ không tái tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo vào tháng 9/2011[3] Ngày 05/02/2011, truyền thông nhà nước Ai Cập đưa tin rằng các thành viên cao cấp của Đảng Dân chủ Quốc gia của Mubarak đã từ chức lãnh đạo đảng, trong đó có cả ông Mubarak. Tuy nhiên, sau đó lại có thông tin ông Mubarak vẫn sẽ giữ chức tổng thống, ít nhất là cho tới cuộc bầu cử Tổng thống tới.[4] Đến ngày 11 tháng 2, ông Mubarak chính thức từ chức và chuyển giao quyền lực cho Hội đồng tối cao các lực lượng vũ trang (Ai Cập).
Trong khi tại vị, tham nhũng trong Bộ máy chính quyền của Mubarak đã tăng đáng kể, do tăng cường quyền lực trong hệ thống thể chế cần để bảo đảm cho nhiệm kỳ Tổng thống kéo dài. Tham nhũng đã dẫn đến việc bắt giam những nhân vật chính trị và nhà hoạt động trẻ mà không cần xét xử,[5] giam giữ bất hợp pháp không có giấy tờ,[6][7] và đàn áp các trường đại học, nhà thờ Hồi giáo, các phóng viên dựa trên khuynh hướng chính trị[8]. Quan chức chính phủ được phép vi phạm quyền riêng tư của công dân trong khu vực của mình bằng cách bắt giữ không điều kiện theo luật khẩn cấp.
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), tổ chức quốc tế chống tham nhũng, bao gồm tham nhũng chính trị, trong năm 2010, đưa ra chỉ số tham nhũng đánh giá Ai Cập với điểm số CPI là 3.1, dựa trên nhận thức về mức độ tham nhũng từ những người kinh doanh và các nhà phân tích quốc gia, với 10 là rất sạch sẽ và 0 là rất tham nhũng. Ai Cập đứng thứ 98 trong số 178 nước trong báo cáo.[9] Theo Tổ chức Phóng viên Không biên giới (Reporters Without Borders), Ai Cập đứng thứ 133 trên 168 về tự do báo chí.[10]