Granit Xhaka
cầu thủ bóng đá người Thụy Sĩ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Granit Xhaka[4][5][6][7] (sinh ngày 27 tháng 9 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Bundesliga Bayer Leverkusen và là đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ.
Xhaka thi đấu trong màu áo Arsenal vào năm 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Granit Xhaka[1] | ||
Ngày sinh | 27 tháng 9, 1992 (31 tuổi)[2] | ||
Nơi sinh | Basel, Thụy Sĩ | ||
Chiều cao | 1,86 m (6 ft 1 in)[3] | ||
Vị trí | Tiền vệ | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Bayer Leverkusen | ||
Số áo | 34 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2000–2002 | Concordia Basel | ||
2002–2010 | FC Basel | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010–2012 | FC Basel | 42 | (1) |
2012–2016 | Borussia Mönchengladbach | 108 | (6) |
2016–2023 | Arsenal | 225 | (17) |
2023– | Bayer Leverkusen | 33 | (3) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2008–2009 | U-17 Thụy Sĩ | 14 | (1) |
2009–2010 | U-18 Thụy Sĩ | 14 | (3) |
2010–2011 | U-19 Thụy Sĩ | 10 | (3) |
2010–2011 | U-21 Thụy Sĩ | 5 | (0) |
2011– | Thụy Sĩ | 123 | (14) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 18:47, 28 tháng 5 năm 2024 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 23:41, 26 tháng 3 năm 2024 (UTC) |
Xhaka bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ quê nhà Basel và từng đoạt danh hiệu vô địch quốc gia trong hai mùa giải đầu tiên của mình. Sau đó anh chuyển đến chơi bóng cho câu lạc bộ Bundesliga Borussia Mönchengladbach năm 2012, phát triển danh tiếng thành một cầu thủ có tố chất kĩ thuật tốt và thủ lĩnh tự nhiên bên cạnh tính khí thất thường của mình.[8] Xhaka được trao băng đội trưởng của Borussia Mönchengladbach năm 2015 ở tuổi 22, đưa đôi bóng giành suất tham dự UEFA Champions League trong hai mùa bóng liên tiếp.[9] Anh hoàn tất thủ tục gia nhập Arsenal vào tháng 5 năm 2016, với mức phí chuyển nhượng 30 triệu bảng.[10] Được coi là một trong những cầu thủ tài năng xuất sắc nhất của thế hệ mình,[11] anh bắt đầu chơi tuyển Thụy Sĩ từ năm 2011 và có hơn 110 lần ra sân đại diện cho đội tuyển tham dự World Cup 2014, Euro 2016, World Cup 2018, Euro 2020 và World Cup 2022.