Tùy Văn Đế
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tùy Văn Đế (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu Tùy Cao Tổ, tên Hán là Dương Kiên (楊堅), tên Tiên Ti là Fuluruqen (普六茹堅, Phổ Lục Như Kiên), biệt danh Nryana (tiếng Trung: 那羅延; bính âm: Nàluóyán, Na La Diên, nghĩa là kim cương bất hoại), nguyên quán ở Hoa Âm, Hoằng Nông[2], là người sáng lập và hoàng đế đầu tiên của nhà Tùy (581 - 618) trong lịch sử Trung Quốc.
Tùy Văn Đế 隋文帝 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Tùy Văn Đế qua nét vẽ của Diêm Lập Bản, họa sĩ đời nhà Đường | |||||||||||||||||
Hoàng đế nhà Tùy | |||||||||||||||||
Trị vì | 4 tháng 3 năm,581 – 13 tháng 8 năm 604 23 năm, 162 ngày | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Thành lập nhà Tùy | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Tùy Dạng Đế | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 21 tháng 7, 541 Trường An, Bắc Chu | ||||||||||||||||
Mất | 13 tháng 8, 604(604-08-13) (63 tuổi) Nhân Thọ cung, Trường An, Đại Tùy | ||||||||||||||||
An táng | Thái lăng (太陵)[1] | ||||||||||||||||
Thê thiếp | Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Triều đại | Nhà Tùy | ||||||||||||||||
Thân phụ | Dương Trung | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Lữ Cổ Đào |
Tùy Văn Đế được các sử gia đánh giá là một Hoàng đế tài giỏi, đã đem lại thái bình và thịnh vượng cho Trung Hoa sau hàng trăm năm chia cắt, khai sáng ra Khai Hoàng chi trị (開皇之治), tạo tiền đề vững chắc cho triều đại nhà Đường thịnh trị về sau. Dưới thời của ông, năm 589, đất nước Trung Quốc lại được thống nhất sau hơn 250 năm chia cắt từ ngày sụp đổ của Tây Tấn năm 316. Ông cũng cho đẩy mạnh xây dựng kênh đào Vận Hà, một công trình thủy lợi có ý nghĩa quan trọng của Trung Quốc thời phong kiến cho đến tận ngày nay.
Dương Kiên ban đầu là một quan lại dưới triều Bắc Chu, phục vụ dưới quyền hai đời vua Bắc Chu Vũ Đế và Bắc Chu Tuyên Đế. Sau khi Tuyên Đế bất ngờ qua đời năm 580, Dương Kiên với tư cách là nhạc phụ của ông ta, nắm lấy trọn quyền nhiếp chính. Sau khi đánh bại phản quân của Uất Trì Quýnh, ông đoạt ngai vàng từ tay ấu đế Vũ Văn Xiển, đổi quốc hiệu mới là Tùy. Ông cũng là vị hoàng đế người Hán đầu tiên cai trị toàn bộ Trung Nguyên kể từ sau Loạn Ngũ Hồ tính từ thời Lưu Tống (nếu không kể giai đoạn bắc phạt ngắn ngủi của Lương Vũ Đế).
Không thể phủ nhận rằng, những năm Khai Hoàng của Tùy Văn Đế là giai đoạn thịnh vượng chưa từng thấy của Trung Quốc từ thời Hán trở đi. Nền kinh tế phát triển, lương thực thời đó được coi là đủ dùng trong 50 năm. Quân sự cũng đạt được nhiều thành công. Những năm đầu tiên, nhà Tùy phải đối mặt với đe dọa từ Đột Quyết ở phía Bắc, Thổ Phiên ở phía Tây, Cao Câu Ly ở miền Đông Bắc, và Champa (Lâm Ấp) từ phía Nam. Đến cuối đời Văn Đế, Đột Quyết đã bị phân chia thành hai miền Đông – Tây, và Đông Đột Quyết cùng Cao Câu Ly đã chịu thần phục nhà Tùy trên danh nghĩa, trong khi người Chăm cũng bị đánh bại và không còn là một mối đe dọa đối với Trung Quốc nữa.
Tùy Văn Đế cũng nổi tiếng vì là một trong những vị hoàng đế không có nhiều thê thiếp của thời phong kiến Trung Quốc (chỉ sau Tây Ngụy Phế Đế và Hoằng Trị Đế là hai vị hoàng đế cả đời chỉ lấy một vợ). Ngoài hoàng hậu, Văn Đế chỉ nạp hai người thiếp[3].