Dân chủ xã hội
chủ nghĩa xã hội ôn hòa / From Wikipedia, the free encyclopedia
Dân chủ xã hội là một hệ tư tưởng kinh tế, chính trị, xã hội bên trong chủ nghĩa xã hội,[1] ủng hộ nền dân chủ chính trị và dân chủ kinh tế.[2] Là một chế độ chính sách, dân chủ xã hội được giới học giả mô tả là ủng hộ các can thiệp kinh tế và xã hội nhằm thúc đẩy công bằng xã hội trong khuôn khổ một nền chính trị dân chủ tự do và một nền kinh tế hỗn hợp định hướng tư bản chủ nghĩa.[3] Các phương thức và chuẩn mực được sử dụng để đạt được điều này bao gồm cam kết về dân chủ đại nghị và dân chủ tham gia, các biện pháp phân phối thu nhập, điều tiết nền kinh tế vì lợi ích chung và các điều khoản phúc lợi xã hội.[4] Do sự cầm quyền lâu dài của các đảng dân chủ xã hội trong thời kỳ đồng thuận hậu chiến tranh thế giới thứ hai và ảnh hưởng của những đảng này đối với chính sách kinh tế xã hội ở các nước Bắc và Tây Âu, nền dân chủ xã hội đã trở nên gắn liền với kinh tế học Keynes, mô hình Bắc Âu, chủ nghĩa tự do xã hội và các nhà nước phúc lợi bên trong giới chính trị cuối thế kỷ 20.[5] Đây được mô tả là hình thức phổ biến nhất của chủ nghĩa xã hội phương Tây hoặc hiện đại,[6] cũng như cánh cải cách của chủ nghĩa xã hội dân chủ.[7]
Bài này có thể cần phải được sửa các lỗi ngữ pháp, chính tả, tính mạch lạc, trau chuốt lại lối hành văn sao cho bách khoa. (Tháng 2/2023) |
Lịch sử của nền dân chủ xã hội bắt nguồn từ phong trào xã hội chủ nghĩa thế kỷ 19. Dân chủ xã hội ủng hộ một quá trình chuyển tiếp hòa bình và cải cách từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sử dụng các quy trình chính trị đã được thiết lập, trái ngược với phương pháp cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn với chủ nghĩa Marx chính thống.[8] Trong thời kỳ đầu hậu chiến ở Tây Âu, các đảng dân chủ xã hội đã bác bỏ mô hình kinh tế và chính trị của chủ nghĩa Stalin lúc bấy giờ ở Liên Xô, cam kết theo một con đường thay thế để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hoặc thỏa hiệp giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.[9] Trong thời kỳ này, các nhà dân chủ xã hội chấp nhận một nền kinh tế hỗn hợp dựa trên sự thống trị của của sở hữu tư nhân, chỉ có một số ít các tiện ích và dịch vụ công thiết yếu thuộc sở hữu công cộng. Các nhà dân chủ xã hội đã thúc đẩy kinh tế học Keynes, chủ nghĩa can thiệp nhà nước và nhà nước phúc lợi, trong khi ít chú trọng hơn đến mục tiêu thay thế hệ thống tư bản (thị trường nhân tố, tài sản tư nhân và tiền công lao động) bằng một hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.[10]
Trong khi giữ chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lâu dài,[11] dân chủ xã hội khác với một số hình thức hiện đại của chủ nghĩa xã hội dân chủ tìm cách nhân tính hoá chủ nghĩa tư bản và tạo điều kiện để chủ nghĩa tư bản dẫn đến dân chủ, bình đẳng và đoàn kết hơn.[12] Dân chủ xã hội đặc trưng bởi cam kết với các chính sách nhằm hạn chế bất bình đẳng xã hội, xóa bỏ áp bức với các nhóm yếu thế và xóa nghèo,[13] cũng như hỗ trợ các dịch vụ công có thể tiếp cận rộng rãi như chăm sóc trẻ em, giáo dục, chăm sóc người già, chăm sóc sức khỏe, và phúc lợi lao động.[14] Dân chủ xã hội có liên hệ chặt chẽ với phong trào lao động và công đoàn, ủng hộ quyền thương lượng tập thể cho người lao động và các biện pháp để mở rộng quyền ra quyết định ra ngoài chính trị sang lĩnh vực kinh tế dưới hình thức đồng quyết định, hoặc sở hữu xã hội, cho người lao động và các bên liên quan.[15] Con đường thứ ba, bề ngoài nhằm mục đích kết hợp kinh tế tự do với các chính sách phúc lợi dân chủ xã hội, là một hệ tư tưởng phát triển vào những năm 1990 và đôi khi được liên kết với các đảng dân chủ xã hội; một số nhà phân tích đã mô tả Con đường thứ ba là một phần của phong trào tân tự do.[16]