Công đồng Vaticanô II
Công đồng đại kết Công giáo từ năm 1962 đến năm 1965, cải cách mọi mặt Giáo hội / From Wikipedia, the free encyclopedia
Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai, gọi tắt là Công đồng Vatican lần thứ hai hay Vatican II, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công đồng được nhóm họp tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican trong bốn kỳ họp, mỗi kỳ họp kéo dài từ 8 đến 12 tuần vào mùa thu mỗi năm từ năm 1962 đến năm 1965. Công việc chuẩn bị cho Công đồng kéo dài 3 năm, từ mùa hạ năm 1959 đến mùa thu năm 1962. Công đồng được Giáo hoàng Gioan XXIII khai mạc vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, và do Giáo hoàng Phaolô VI bế mạc ngày 8 tháng 12 năm 1965 (tại vị Giáo hoàng trong 3 kỳ họp cuối sau khi Giáo hoàng Gioan XXIII mất vào ngày 3 tháng 6 năm 1963). Không có bản tuyên bố bất khả ngộ.[1][2]
Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai | |
---|---|
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô Hội trường của Công đồng Vatican lần thứ hai | |
Ngày | ngày 11 tháng 10 năm 1962 – ngày 8 tháng 12 năm 1965 |
Chấp nhận bởi | Giáo hội Công giáo |
Công đồng lần trước | Công đồng Vatican lần thứ nhất |
Công đồng lần sau | {{{sau}}} |
Triệu tập bởi | Giáo hoàng Gioan XXIII |
Chủ trì | Giáo hoàng Gioan XXIII Giáo hoàng Phaolô VI |
Tham dự | đến 2.625 |
Chủ đề thảo luận | Hoàn thành công việc chưa xong của Vatican I và tiếp cận đại kết để giải quyết nhu cầu của thế giới hiện đại |
Tín điều và tuyên bố | Bốn hiến chế:
Ba bản tuyên ngôn:
Chín sắc lệnh:
|
Danh sách thứ tự các công đồng đại kết |
Giáo hoàng Gioan XXIII khởi xướng Công đồng này vì cho rằng Giáo hội cần được canh tân (aggiornamento). Để kết nối với các thành phần dân Chúa trong thế kỷ 20, khi mà đời sống trọng vật chất ngày một chiếm lĩnh thế giới, một số hoạt động của Giáo hội cần được canh tân, và giáo lý Công giáo cũng cần được rao giảng trong tương quan và dễ nắm bắt đối với các thành phần dân Chúa thuộc thời đại này. Nhiều Nghị phụ thấu hiểu điều này, trong khi một số khác cố níu giữ quan điểm bảo thủ. Tuy nhiên, nhóm ủng hổ "canh tân" đã chiến thắng trước phía đối lập, và kết quả là 16 văn kiện được Công đồng đưa ra nhằm phát triển mãnh mẽ hệ thống giáo lý và mục vụ như: cải cách sâu rộng hoạt động phụng vụ, đổi mới các học thuyết về Giáo hội, mặc khải và giáo dân, cách tiếp cận mới trong quan hệ giữa Giáo hội và thế giới[3], về Đại kết, về quan hệ liên tôn và về tự do tôn giáo.
Theo Giáo hoàng Biển Đức XVI thông điệp chính của Công đồng là tính quan trọng của sự Phục sinh với Kitô hữu.[4] Công đồng đổi mới đời sống thánh hiến, cố gắng đối thoại với những tôn giáo khác, và kêu gọi cả thế giới đến sự thánh thiện là mục đích quan trọng nhất theo Đức Giáo hoàng Phaolô VI.[5] Về sau tiếng bản xứ được dùng rộng rãi trong Thánh lễ thay thế tiếng Latin, phẩm phục thường được sử dụng là Gothic thay vì Roman như trước đây, Kinh nguyện Thánh Thể được bổ sung thêm nhiều mẫu, năm phụng vụ được tinh giản, linh mục được phép hướng về giáo dân khi cử hành Thánh lễ, và âm nhạc có nhiều thích nghi với các dân tộc, dù vậy bình ca vẫn là chuẩn mực của thánh nhạc. Nhiều cải cách còn gây tranh cãi trong cộng đồng tín hữu Công giáo.[lower-alpha 1]
Trong các người tham dự cuộc họp thứ nhất của Công đồng có bốn ngài trở thành giáo hoàng: Hồng y Giovanni Battista Montini là Giáo hoàng Phaolô VI; Giám mục Albino Luciani là Giáo hoàng Gioan Phaolô I; Giám mục Karol Wojtyła là Giáo hoàng Gioan Phaolô II; và Cha Joseph Ratzinger, có mặt làm cố vấn thần học, là Giáo hoàng Biển Đức XVI.[6][7][8]
Thập kỉ 50 thuyết thần học và nghiên cứu kinh thánh trong Giáo hội bắt đầu mất tính bảo thủ của Công đồng Vatican lần thứ nhất. Những nhà thần học như Karl Rahner và John Courtney Murray dựa trên lời kêu gọi đổi mới của Giáo hoàng Gioan XXIII mà tìm cách tích hợp kinh nghiệm của loài người thời nay với các nguyên tắc giáo hội căn cứ vào Chúa Kitô, còn những người khác như Yves Congar, Henri de Lubac,[9] và Joseph Ratzinger thì lấy sự hiểu biết đúng đắn về kinh thánh và các Giáo phụ của Giáo hội làm cơ sở chấn hưng. Cùng lúc các giám mục phải đối phó với những biến đổi chính trị, xã hội, kinh tế, và công nghệ. Nguyên là Công đồng Vatican lần thứ nhất được triệu tập gần một thế kỷ trước để thu xếp các vấn đề đương đại, vì bị Quân đội Ý cắt ngắn vào năm 1870 nên chỉ thảo luận xong được vai trò của giáo hoàng cùng quan hệ hoà hợp giữa đức tin và lý trí, còn vai trò của giám mục và giáo dân thì chưa quyết định.[10][11]
Ngày 25 tháng 1 năm 1959 Giáo hoàng Gioan XXIII báo kế hoạch triệu tập Công đồng, chưa đầy ba tháng sau khi đắc cử vào tháng 10 năm 1958,[12] làm kinh ngạc Giáo triều. Những người bên trong Giáo hội ban đầu bày tỏ ít ý kiến, lãnh tụ tôn giáo và phi tôn giáo bên ngoài đều hưởng ứng.[13] Ngày 25 tháng 12 năm 1961 Công đồng được chính thức triệu tập.[14][15] Trước đó Gioan XXIII thừa nhận đã đến lúc "cho không khí trong lành vào cửa sổ".[16] Những tín hữu khác bên ngoài Giáo hội Công giáo được mời phái quan sát viên đến Công đồng. Cả Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương lẫn các giáo phái Tin Lành đều đồng ý, nhưng không dự vào việc tán thành các văn kiện công đồng.[17][lower-alpha 2]