Công viên kỷ Jura
From Wikipedia, the free encyclopedia
Công viên kỷ Jura (tên gốc tiếng Anh: Jurassic Park) là phim điện ảnh phiêu lưu khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 1993 do Steven Spielberg đạo diễn và Kathleen Kennedy cùng Gerald R. Molen phụ trách sản xuất. Đây là phần phim đầu tiên của thương hiệu điện ảnh Công viên kỷ Jura, dựa theo nguyên tác tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Michael Crichton xuất bản năm 1990, với Crichton và David Koepp đảm nhiệm vai trò biên kịch. Phim lấy bối cảnh tại hòn đảo giả tưởng Isla Nublar nằm ở vùng ven biển Thái Bình Dương thuộc Trung Mỹ, gần Costa Rica, nơi nhà triệu phú John Hammond và một nhóm các nhà di truyền học đã tạo ra một công viên hoang dã gồm nhiều chủng loại khủng long được dòng hóa. Khi hệ thống an ninh và năng lượng của công viên bị vô hiệu hóa, một nhóm những khách tham quan công viên, bao gồm cháu ruột của Hammond, đã phải tìm cách sinh tồn và trốn thoát khỏi hòn đảo nguy hiểm.
Công viên kỷ Jura
| |
---|---|
Áp phích phim chính thức chiếu rạp | |
Đạo diễn | Steven Spielberg |
Kịch bản |
|
Dựa trên | Jurassic Park của Michael Crichton |
Sản xuất |
|
Diễn viên |
|
Quay phim | Dean Cundey |
Dựng phim | Michael Kahn |
Âm nhạc | John Williams |
Hãng sản xuất |
|
Phát hành | Universal Pictures |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 127 phút[1] |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Kinh phí | 63 triệu USD[2] |
Doanh thu | 1,046 tỉ USD[2] |
Trước khi tiểu thuyết của nhà văn Crichton được xuất bản, bốn hãng phim đã trả giá cho bản quyền chuyển thể điện ảnh. Với sự giúp đỡ của Universal Studios, Spielberg có được bản quyền phim với giá 1,5 triệu USD trước khi quyển sách được ra mắt vào năm 1990; Crichton cũng được thuê với mức lương 500.000 USD để chuyển thể tiểu thuyết lên màn ảnh rộng. Koepp đảm nhiệm phần kịch bản cuối cùng, và phiên bản này đã tỉnh lược nhiều chi tiết bạo lực trong nguyên tác, đồng thời thay đổi nhiều yếu tố về phần nhân vật. Phim được bấm máy tại California và Hawaii vào khoảng từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1992, với phần hậu kỳ được kéo dài tới tháng 5 năm 1993, dưới sự giám sát của Spielberg tại Ba Lan khi ông đang trong quá trình thực hiện Bản danh sách của Schindler (1993).
Các loài khủng long được hãng Industrial Light & Magic tạo dựng bằng công nghệ CGI và đồng thời với mô hình khủng long kích thước thực do Stan Winston và đội của anh chuẩn bị. Để khắc họa phần thiết kế âm thanh trong phim, bao gồm sự pha trộn giữa âm thanh của các loài động vật cũng như tiếng gầm của khủng long, Spielberg đã đầu tư vào DTS, một công ty chuyên về các định dạng âm thanh vòm kỹ thuật số. Cùng với chiến dịch quảng bá 65 triệu USD, trong đó bao gồm hợp đồng với 100 công ty khác nhau, Công viên kỷ Jura đã thu về hơn 914 triệu USD toàn cầu trong lần chiếu chính thức, trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao nhất năm 1993 và phim điện ảnh có doanh thu cao nhất mọi thời đại tại thời điểm đó, và nắm giữ danh hiệu này trong bốn năm, cho tới khi Titanic (1997) được công chiếu. Công viên kỷ Jura nhận được nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn, đề cao phần kỹ xảo hình ảnh, phần nhạc nền của John Williams và chỉ đạo sản xuất của Spielberg. Sau khi được chiếu lại dưới định dạng 3D vào năm 2013 để kỷ niệm 20 ngày ra mắt, Công viên kỷ Jura trở thành phim điện ảnh thứ 17 trong lịch sử cán mốc 1 tỉ USD doanh thu phòng vé.
Công viên kỷ Jura đã giành chiến thắng tổng cộng hơn 20 giải thưởng, bao gồm ba giải Oscar cho các hạng mục kỹ thuật như kỹ xảo hình ảnh và thiết kế âm thanh. Phim cũng được nhớ đến như một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của công nghệ CGI và kỹ xảo mô hình cơ khí. Vào năm 2018, nó đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ chọn để bảo quản trong Cơ quan đăng ký phim quốc gia Hoa Kỳ vì " có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ". Các phần phim tiếp theo của phim là Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura (1997) và Công viên kỷ Jura III (2001), Thế giới khủng long (2015), Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ (2018) và Thế giới khủng long: Lãnh địa (2022).