![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/0/0a/Mount_kinabalu_01.png/640px-Mount_kinabalu_01.png&w=640&q=50)
Công viên Kinabalu
From Wikipedia, the free encyclopedia
Công viên Kinabalu (tiếng Mã Lai: Taman Kinabalu) được thành lập vào năm 1964 như là một trong những vườn quốc gia đầu tiên của Malaysia. Được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ tháng 12 năm 2000, nó là địa điểm đầu tiên của Malaysia có được danh hiệu này nhờ giá trị phổ quát nổi bật và là một trong những địa điểm đa dạng sinh học quan trọng nhất trên thế giới với hơn 4.500 loài động thực vật, trong đó có 326 loài chim, khoảng 100 loài động vật có vú,[1] và hơn 110 loài ốc cạn.[2]
Công viên Kinabalu | |
---|---|
IUCN loại II (Vườn quốc gia) | |
![]() | |
Vị trí | Sabah, Malaysia |
Thành phố gần nhất | Kota Kinabalu, Tuaran (Tamparuli), Kota Belud, Ranau |
Tọa độ | 6°09′B 116°39′Đ |
Diện tích | 754 km2 (291 dặm vuông Anh) |
Thành lập | 1964 |
Cơ quan quản lý | Cơ quan Công viên Sabah |
Tên chính thức | Công viên Kinabalu |
Loại | Thiên nhiên |
Tiêu chuẩn | ix, x |
Đề cử | 2000 (Kỳ họp 24) |
Số tham khảo | 1012 |
Quốc gia | Malaysia |
Vùng | Châu Á và châu Đại Dương |
Công viên này nằm trên bờ biển phía tây của tiểu bang Sabah trên đảo Borneo của Malaysia. Với diện tích 754 kilômét vuông bao quanh núi Kinabalu. Ở độ cao 4.095,2 mét, đây là ngọn núi cao nhất trên đảo Borneo. Nó là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất ở Sabah và Malaysia nói chung. Năm 1967 đã có hơn 987.653 du khách và 43.430 người leo núi đã đến thăm công viên.