Cách mạng Dân tộc Indonesia
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cách mạng Dân tộc Indonesia hoặc Chiến tranh Độc lập Indonesia là một xung đột vũ trang và đấu tranh ngoại giao giữa Indonesia và Đế quốc Hà Lan, và một cách mạng xã hội nội bộ. Cách mạng được cho là bắt đầu từ Tuyên ngôn độc lập Indonesia năm 1945 và kéo dài cho đến khi Hà Lan công nhận độc lập của Indonesia vào cuối năm 1949.
Cách mạng Dân tộc Indonesia | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||
Tham chiến | |||||||
|
Hà Lan (từ 1946)
Anh Quốc (cho đến 1946) | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Sukarno Mohammad Hatta Sudirman Sri Sultan Hamengkubuwana IX Syafruddin Prawiranegara |
Simon Spoor Hubertus van Mook Willem Franken Clement Attlee Philip Christison Tjokorda Sukawati Sultan Hamid II | ||||||
Lực lượng | |||||||
Quân đội Cộng hòa: 150.000 Pemuda: khoảng 60.000 quân tình nguyện là cựu binh Nhật Bản: 3.000 Quân đào ngũ Ấn Độ thuộc Anh:600 |
Quân đội Vương thất Hà Lan: 20.000 (ban dầu) - 180.000 (đỉnh) Quân đội Vương thất Đông Ấn Hà Lan: 60.000 Anh: 30.000+ (đỉnh) | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
97,421 quân lính và dân thường thiệt mạng[1] |
980 quân Anh thiệt mạng [2] 4,585 Quân đội Hà Lan thiệt mạng[3] |
Đấu tranh kéo dài trên bốn năm và kéo theo các xung đột vũ trang rải rác song đổ máu, những biến động chính trị và công cộng bên trong Indonesia, và hai can thiệp ngoại giao quốc tế lớn. Mặc dù lực lượng Hà Lan có thể kiểm soát các thành thị tại khu trung tâm của lực lượng cộng hòa trên các đảo Java và Sumatra, song họ không thể kiểm soát các làng quê. Do đó, nước Cộng hòa Indonesia cuối cùng chiếm ưu thế trong ngoại giao quốc tế và xung đột vũ trang tại Java và các đảo khác.
Cách mạng lật đổ chính quyền thực dân Đông Ấn Hà Lan. Nó cũng biến đổi đáng kể các đẳng cấp chủng tộc, cũng như làm giảm quyền lực của nhiều quân chủ địa phương. Cách mạng không tạo ra cải thiện đáng kể về đời sống kinh tế hoặc chính trị của đa số dân cư.