Cuộc xâm lược Ba Lan (1939)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cuộc xâm lược Ba Lan 1939 – được người Ba Lan gọi là Chiến dịch tháng Chín (Kampania wrześniowa), Chiến tranh vệ quốc năm 1939 (Wojna obronna 1939 roku); người Đức gọi là Chiến dịch Ba Lan (Polenfeldzug) hoặc bí danh Kế hoạch Trắng (Fall Weiss) – là chiến dịch quân sự mở đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra vào ngày 1 tháng 9 năm 1939 khi Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Ba Lan. Ngày 17 tháng 9 năm 1939, đến lượt Hồng quân Liên Xô xâm nhập Đông Ba Lan, nhưng không giao chiến nhiều. Ngoài ra còn có một lực lượng nhỏ quân Slovakia, đồng minh của Đức tham chiến. Chiến thắng quyết định trong cuộc tấn công này đã thể hiện sức chiến đấu hiệu quả của lực lượng Wehrmacht của nền Đệ tam Đế chế Đức.[6]
Cuộc xâm lược Ba Lan | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||||
Từ trái sang phải: Không quân Đức (Luftwaffe) ném bom Ba Lan, Schleswig-Holstein tấn công Westerplatte, lính Wehrmacht dỡ bỏ chốt chặn tại biên giới Ba Lan-Đức, đội hình tiến công của thiết giáp Đức, lính Đức và lính Xô Viết bắt tay nhau sau trận Brest-Lwów, cảnh ném bom thành phố Warszawa. | |||||||||
| |||||||||
Cuộc xâm lược Ba Lan | |||||||||
Đức Du kích Ukraina | Ba Lan | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
|
| ||||||||
Thành phần tham chiến | |||||||||
Quân Ba Lan
| |||||||||
Lực lượng | |||||||||
Đức: Tổng cộng: 1,500,000 quân Đức,[1] 466,516-800,000 Hồng quân, 51,306 lính Slovakia Tất cả: 2,000,000-2,350,000+ |
Ba Lan: Tổng cộng: 950,000-1,000,000[4] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Đức: 16.343 chết,[5] Tổng thương vong: 59,000 |
Ba Lan:[5] 66,000 chết 133,700 bị thương 660,000–690,000 tù binh 132 xe tăng và xe bọc thép 327 máy bay Tổng thương vong: 859,700–889,700 |
Sự kiện Đức tấn công Ba Lan được coi là điểm khởi đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, lôi kéo các nước đồng minh của Ba Lan như Pháp và Anh, Úc và New Zealand tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9 năm 1939, sau đó là Nam Phi, Canada và nhiều nước khác. Tuy vậy, Anh và Pháp dù đã tuyên chiến với Đức, vẫn không chi viện đáng kể gì và để mặc Ba Lan chống đỡ quân Đức (Xem Cuộc chiến tranh kỳ quặc).
Sau sự kiện Gleiwitz ngày 31 tháng 8 năm 1939, ngày 1 tháng 9, quân Đức tiến đánh Ba Lan từ các hướng bắc, nam và tây. Sau khi thắng trận Bzura, quân Đức giành được ưu thế quyết định trên chiến trường. Quân Ba Lan bắt đầu rút lui về hướng đông nam, theo một kết hoạch từ trước nhằm bảo vệ tuyến phòng thủ dọc theo khu vực đầu cầu Romania, nơi quân Ba Lan hy vọng nhận được cứu viện từ lực lượng Đồng Minh để phản công.[7] Ngày 17 tháng 9 năm 1939, Hồng quân tràn lên tấn công Ba Lan từ phía đông.[8] Quân Liên Xô tiến công để thực thi thỏa thuận trong Hiệp ước Xô-Đức, theo đó Liên Xô được quyền giành lại những lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của họ trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921).[9] Phải đối mặt với một mặt trận thứ hai, chính phủ Ba Lan quyết định việc phòng thủ khu vực đầu cầu Romania không còn khả thi nữa, và quyết định di tản toàn bộ binh lính sang nước România trung lập.[10] Tới 1 tháng 10, quân Đức đã hoàn thành chiếm đóng Ba Lan, mặc dù Chính phủ Ba Lan không tuyên bố đầu hàng. Một phần lực lượng bộ binh và không quân Ba Lan được di tản sang România và Hungary, rất nhiều người trong số này sau đó gia nhập Đạo quân Ba Lan phía Tây, nằm trong lực lượng đồng minh Pháp, lãnh thổ ủy trị Syria, và Vương quốc Anh.
Ngày 27 tháng 9 năm 1939, thủ đô Warszawa của Ba Lan chính thức bị quân Đức chiếm. Ngày 6 tháng 10 năm 1939, cuộc tấn công Ba Lan chấm dứt, lãnh thổ Ba Lan đã bị chiếm giữ bởi Đức Quốc xã, trong khi các vùng phía Đông sáp nhập vào Liên Xô. Đức cai trị Ba Lan thông qua một viên Toàn quyền người Đức, người Ba Lan gốc Do Thái bị truy quét, tiêu diệt dữ dội cho tới khi Đức mất Ba Lan bởi sự phản công của Liên Xô năm 1944. Trong suốt thời gian bị chiếm đóng, Ba Lan mất hơn 20% dân số, cuộc chiến tranh này cũng đánh dấu sự kết thúc của nền Cộng hòa Ba Lan lần thứ hai. Chiến thắng chóng vánh của quân Đức trong cuộc tiến công này đã đặt tiền đề cho thuật ngữ Blitzkrieg ("Chiến tranh Chớp nhoáng") chỉ đường lối chiến tranh của nước Đức thời ấy xuất hiện trong từ điển tiếng Anh.[11]