Chiến tranh Xô–Đức
Cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945 là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 khi Quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) theo lệnh Adolf Hitler xoá bỏ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Liên Xô- Đức và bất ngờ tấn công Liên bang Xô Viết tới ngày 9 tháng 5 năm 1945 khi đại diện Đức Quốc xã ký kết biên bản đầu hàng không điều kiện Quân đội Xô Viết và các lực lượng của Liên minh chống Phát xít sau khi Quân đội Xô Viết đánh chiếm thủ đô Đức Berlin. Nó đã được biết đến bởi rất nhiều cái tên khác nhau tùy thuộc vào các quốc gia, phía Liên Xô gọi nó là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (tiếng Nga: Великая Отечественная Война) lấy theo tên trong lời hiệu triệu của Stalin trên radio gửi đến nhân dân Xô Viết vào ngày 3 tháng 7 năm 1941, hoặc cuộc Chiến tranh thần thánh (tiếng Nga: Священная война); trong khi người Đức (và các nước phương Tây) thường gọi nó đơn giản là Mặt trận phía đông (tiếng Đức: die Ostfront[16]), Chiến dịch phía đông (tiếng Đức: der Ostfeldzug) hoặc Chiến dịch nước Nga (tiếng Đức: der Rußlandfeldzug)[17] vì thực chất đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc chiến ở mặt trận phía đông châu Âu trong Thế chiến thứ hai.
Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưng vẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu các chú thích trong hàng. (tháng 2/2024) |
Chiến tranh Xô–Đức | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến trường châu Âu trong Thế chiến thứ hai | |||||||||
Theo chiều kim đồng hồ từ trên cùng bên trái: Xe tăng T-34 của Liên Xô tấn công Berlin; Xe tăng Tiger I của Đức trong trận Kursk; Máy bay ném bom bổ nhào Stuka của Đức không kích trên Mặt trận phía Đông vào tháng 12 năm 1943; Einsatzgruppen sát hại người Do Thái ở Ukraina; Wilhelm Keitel đại diện cho Đức ký Văn kiện đầu hàng; Hồng quân Liên Xô trong trận Stalingrad | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Phe Trục Đức[1] România (đến 1944) Phần Lan (đến 1944) Phát xít Ý (đến 1943) Hungary Croatia[2] Slovakia Bulgaria (đến 1944) |
Đồng Minh:
Hỗ trợ không quân và hải quân:
| ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Adolf Hitler (Tổng tư lệnh) Ernst Busch Heinz Guderian Ewald von Kleist Günther von Kluge Georg von Küchler Wilhelm von Leeb Wilhelm List Erich von Manstein Walter Model Friedrich Paulus (POW) Gerd von Rundstedt Fedor von Bock † Felix Steiner Ferdinand Schörner Erhard Raus Walther von Reichenau † Ion Antonescu Petre Dumitrescu Constantin Constantinescu Carl Gustaf Emil Mannerheim Karl Lennart Oesch Gusztáv Vitéz Jány Ferenc Szombathelyi Giovanni Messe Italo Gariboldi Viktor Pavičić † Marko Mesić Stepan Bandera |
Joseph Stalin (Tổng tư lệnh) Aleksey Antonov Nikandr Chibisov Ivan Konev Rodion Malinovsky Ivan Bagramyan Ivan Fedyuninsky Valerian Frolov Vasily Gordov Leonid Govorov Mikhail Kirponos † Mikhail Khozin Fyodor Kuznetsov Ivan Maslennikov Kirill Meretskov Dmitry Pavlov † Ivan Petrov Markian Popov Maksim Purkayev Konstantin Rokossovsky Pavel Rotmistrov Semyon Timoshenko Fyodor Tolbukhin Aleksandr Vasilevsky Nikolai Vatutin † Kliment Voroshilov Andrei Yeremenko Matvei Zakharov Georgy Zhukov Stanislav Poplavsky | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Tháng 6/1941: 5,5 triệu quân[3] Tháng 6/1942: 6,2 triệu quân[4][5] Tháng 6/1943: 5,35 triệu quân[6] Tháng 2/1944: 4,8 triệu quân Tháng 1/1945: Khoảng 3 triệu quân |
Tháng 6/1941: 3,35 triệu quân[7] Tháng 6/1942: 5,5 triệu quân Tháng 6/1943: 6,44 triệu quân[8] Tháng 2/1944: 6,1 triệu quân[9] Tháng 1/1945: Khoảng hơn 8 triệu quân | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Khoảng 5,1 triệu quân tử trận hoặc mất tích (bao gồm 4,137 triệu quân Đức và 950 nghìn quân đồng minh)[10] Khoảng 4,5 triệu quân bị bắt (khoảng 580 ngàn chết trong trại tù binh) Không rõ số quân bị thương hoặc bị bệnh Tổn thất về trang bị: 42.700 xe tăng và pháo tự hành[11] 75.700 máy bay[12] ~95.000 xe half track và xe bọc thép[cần dẫn nguồn] |
6.329.600 quân nhân tử trận ~500.000 quân nhân mất tích 555.500 quân nhân chết do ốm hoặc tai nạn 4.059.000 quân nhân bị bắt (khoảng 1.283.000 chết trong trại tù binh)[13] 21.222.795 bị thương hoặc bị bệnh (trong đó 13.581.483 bị thương trong chiến đấu, 7.641.312 bị bệnh khi không chiến đấu)[14] 12-16 triệu thường dân chết Tổn thất về trang bị: 96.500 xe tăng và pháo tự hành 106.400 máy bay 37.600 xe half track và xe bọc thép[15] |
Tuy có tên là Chiến tranh Xô–Đức nhưng thực ra Đức không tấn công Liên Xô một mình mà còn có sự giúp sức của 8 nước đồng minh phe Trục ở châu Âu là Romania, Hungary, Bulgaria, Phát xít Ý, Slovakia, Croatia, Phần Lan, Vichy Pháp. Về phía Liên Xô, trên đà chiến thắng kể từ năm 1943, họ đã cho thành lập quân đội các nước Ba Lan, Tiệp Khắc bên phía mình để chiến đấu trên lãnh thổ các quốc gia này và làm nòng cốt xây dựng quân đội các quốc gia này sau chiến thắng. Vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945, khi quân đội Xô Viết tiến vào Romania, Hungary, các nước này đã quay sang chống lại Đức Quốc xã và gia nhập Liên minh chống Phát xít. Cuộc chiến tranh tiếp diễn giữa Liên Xô và Phần Lan có thể coi là sườn phía bắc của mặt trận này. Ngoài ra, các hoạt động phối hợp của Đức-Phần Lan qua biên giới phía bắc Phần Lan-Liên Xô và tại khu vực Murmansk cũng được coi là một phần của Chiến tranh Xô–Đức.
Mặt trận này đã được đặc trưng bởi quy mô và sự ác liệt chưa từng thấy, sự hủy diệt quy mô lớn, và những tổn thất nhân mạng to lớn do chiến tranh, nạn đói, bệnh tật và cả những cuộc thảm sát. Đây cũng là nơi tập trung phần lớn các trại tập trung, các cuộc hành quân chết, các khu Do Thái, và những cuộc tàn sát, là trung tâm của cuộc Đại đồ sát người Do Thái. Trong tổng số người chết ước tính khoảng 70 triệu của Thế chiến thứ hai thì trên 30 triệu người đã chết tại mặt trận này,[18] trong đó có nhiều dân thường. Cuộc chiến này có ý nghĩa quyết định đối với kết quả của Thế chiến thứ hai và là nguyên nhân chính cho sự thất bại của Đức[19][20][21] và việc tiêu diệt nước Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Liên bang Xô viết trỗi dậy trở thành một siêu cường quân sự và công nghiệp, các đảng Cộng sản thiết lập chính phủ trên phần lớn các nước Đông Âu, còn nước Đức bị khối Đồng Minh phân đôi thành Cộng hoà Dân chủ Đức và Cộng hoà Liên bang Đức.
Hai cường quốc tham chiến chủ yếu là phát xít Đức và Liên Xô. Mặc dù không tham chiến tại đây, nhưng Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã viện trợ về tài chính và vật chất hỗ trợ cho Liên Xô trong các giai đoạn sau của cuộc chiến (khoảng 4% lượng vũ khí mà Liên Xô sử dụng là do Mỹ - Anh viện trợ). Trong khi đó, phía Đức Quốc xã thì nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp và Tây Ban Nha), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Đức Quốc xã đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến chống Liên Xô[22], ngoài ra Đức còn tuyển mộ hàng trăm ngàn lính đánh thuê từ các nước vùng Baltic, Nam Tư, Đan Mạch, người Cozak. Trên thực tế, quân đội Liên Xô phải cùng lúc đương đầu với quân đội của 9 nước châu Âu chứ không chỉ riêng Đức Quốc xã. Nếu không có sự trợ giúp của 9 nước này, Đức Quốc xã sẽ không thể có đủ nhân lực và tài nguyên để tiến hành chiến tranh tổng lực lâu dài với Liên Xô (ví dụ, sau khi Romania bị Liên Xô đánh bại vào tháng 8 năm 1944 thì Đức cũng bị mất một nửa nguồn cung dầu mỏ, điều này khiến sản lượng vũ khí của Đức sụt giảm nhanh chóng kể từ cuối năm 1944 và quân đội Đức cũng thua chung cuộc chỉ nửa năm sau đó).