Chiến tranh Chín Năm
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Đại liên minh (1688-1697) - thường được gọi là chiến tranh chín năm, cuộc chiến tranh Kế vị Palatine, hoặc chiến tranh của Liên minh Augsburg[3] - là một cuộc chiến lớn cuối thế kỷ 17 giữa vua Louis XIV của Pháp với Đại Liên minh, do vua William III của Anh-Hà Lan, Leopold I của Đế quốc La Mã thần thánh, vua Carlos II của Tây Ban Nha, Victor Amadeus II của Savoy và các vị công tước trong đế quốc La Mã Thần thánh tham gia. Cuộc chiến diễn ra chủ yếu ở châu Âu và một vài vùng xung quanh, nhưng ở Ireland cũng diễn ra một trận đánh lớn, nơi mà William III và James II "tranh hùng" để giành quyền kiểm soát quần đảo Anh và một vài chiến dịch nhỏ giữa các người định cư Pháp và người Anh cùng các đồng minh Da đỏ ở các thuộc địa tại Bắc Mỹ. Đây là cuộc chiến thứ hai trong ba cuộc chiến tranh lớn của vua Louis XIV.
Chiến tranh Chín năm | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cuộc vây hãm Namur, tháng 6 1692 do Jean-Baptiste Martin le vieux | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Đại liên minh:![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() Irish Jacobites | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() Bản mẫu:FlagKingdom of France Marquis de Vauban ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() ![]() James II of England Earl of Tyrconnell |
Louis XIV đã nổi lên từ cuộc chiến tranh Pháp-Hà Lan năm 1678 và trở thành vị vua tài ba ở châu Âu thời bấy giờ. Mặc dù đã mở rộng lãnh thổ của nước Pháp bằng những cuộc chinh phạt của đội quân Pháp hùng mạnh, vị "vua mặt trời" vẫn không hài lòng. Bằng cách sử dụng những kết hợp giữa các phương tiện xâm lược, thôn tính hay bán-pháp lý, Louis XIV ngay lập tức tăng cường lợi ích của mình để ổn định và tăng cường biên giới của Pháp, lên đến đỉnh điểm trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi với Tây Ban Nha (1683-1684). Thỏa thuận đình chiến Regensburg đảm bảo cương thổ của Pháp mở rộng trong hai mươi năm nhưng Louis XIV vẫn tiếp tục hành động - đáng chú ý là việc thu hồi Sắc lệnh Nantes năm 1685 và cố gắng mở rộng ảnh hưởng đến vùng Rhineland, Đức - dẫn đến sự suy giảm ảnh hưởng của mình trong quân sự và chính trị. Louis XIV quyết định vượt sông Rhine và vây hãm Philippsburg vào tháng 9 năm 1688, được dự định trước để đánh chặn một cuộc tấn công vào nước Pháp của Hoàng đế Leopold I và quân đội Thánh chế La Mã vào việc chấp nhận yêu sách về lãnh thổ và quyền kế vị của Louis.
Các cuộc xung đột chính diễn ra hầu hết ở xung quanh biên giới nước Pháp: Hà Lan-Tây Ban Nha, Rhineland, công quốc Savoy, và Catalonia. Những chiến dịch này được chi phối phần lớn bởi các cuộc bao vây, đặc biệt là ở Mons, Namur, Charleroi và Barcelona: những trận đánh mở như Fleurus và Marsaglia ít khi xảy ra hơn. Những cam kết này nói chung đã ủng hộ quân đội của Louis XIV, nhưng, năm 1696 Pháp đang ở trong tình trạng khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế. Các cường quốc hàng hải (Anh và Cộng hòa Hà Lan) cũng đã cạn kiệt tài chính và khi Savoy rời Liên minh thì hai bên đều muốn hướng tới một cuộc đàm phán. Theo các điều khoản trong Hiệp ước Ryswick (1697), Louis giữ lại toàn bộ Alsace nhưng đã buộc phải trả Lorraine trở lại cho chủ nhân của nó, ông cũng đã phải từ bỏ tất cả lợi ích của mình trên bờ đông sông Rhine. Louis XIV đã đồng ý chấp nhận William III trở thành vua của nước Anh, trong khi Hà Lan có các pháo đài Barrier ở Hà Lan Tây Ban Nha để giúp bảo vệ biên giới của họ. Việc Carlos II của Tây Ban Nha sắp qua đời và không có nổi một mụn con để kế vị mình (điều quan trọng nhất chưa được giải đáp trong chính trị châu Âu) sớm sẽ lôi kéo Pháp và Đại liên minh trong cuộc xung đột cuối cùng của Louis XIV - cuộc chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha.