Chiến dịch Praha
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Praha là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 5 năm 1945, đây là một trong số ít các chiến dịch tấn công chiến lược có thời gian ngắn nhất trên mặt trận Xô-Đức. Tham gia chiến dịch có ba Phương diện quân Liên Xô cùng với hai tập đoàn quân Romania, một tập đoàn quân Ba Lan và một quân đoàn Tiệp Khắc với 180 sư đoàn có tổng quân số lên đến gần 2.100.000 người. Đối diện với khối quân khổng lồ này là hơn 900.000 quân Đức và các đơn vị Quân giải phóng Nga (ROA) từ các hướng bị thua trận rút về Tiệp Khắc.[3]
Chiến dịch Praha | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Mặt trận Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||
Nguyên soái I. S. Konev và các thành viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Ukraina 1 tại Praha vừa được giải phóng | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Đồng Minh: ROA |
| ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
I. S. Konev R. Ya. Malinovsky A. I. Yeryomenko Ludvík Svoboda Vasile Atanasiu Nicolae Dăscălescu Stanislav Gilyarovich Poplavsky |
Ferdinand Schörner Walter Model Gotthard Heinrici Walther Nehring | ||||||
Lực lượng | |||||||
Liên Xô: 1.770.700 người Ba Lan: 69.500 người Romania: 139.500 người Tiệp Khắc:48.400 người Xe tăng và pháo tự hành: hơn 2.000 Pháo và súng cối: 30.500 Máy bay: 4.000.[1] |
Hơn 900.000 người 1.900 xe tăng và pháo tự hành 9.700 đại bác và súng cối gần 1.000 máy bay.[2] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Liên Xô: 11.265 chết, 38.083 bi thương Ba Lan: 300 chết, 587 bị thương Romania: 320 chết, 1.410 bị thương Tiệp Khắc: 112 chết, 421 bị thương [1] |
40.000 chết 860.000 bị bắt làm tù binh Toàn bộ vũ khí, chiến cụ bị phá hủy hoặc bị thu giữ |
Sau bốn ngày tấn công liên tục, Phương diện quân Ukraina 1 đã giải phóng thủ đô Praha của Tiệp Khắc, phối hợp với Phương diện quân Ukraina 2 và Phương diện quân Ukraina 4 vây chặt Cụm tập đoàn quân Trung tâm (Đức) tại phía Đông Praha. Sau ba ngày giao chiến, Cụm tập đoàn quân này hạ vũ khí đầu hàng quân đội Liên Xô. Trên biên giới Áo-Tiệp Khắc, Cụm tập đoàn quân Áo (Đức) cũng hạ vũ khí đầu hàng Tập đoàn quân 3 (Hoa Kỳ). Thắng lợi nhanh chóng của quân đội Liên Xô trong Chiến dịch Praha cũng đặt dấu chấm hết cho các đạo quân Nga chiến đấu dưới cờ của quân đội Đức Quốc xã, bao gồm Quân đoàn Vlasov, các sư đoàn ROA và các đơn vị SS người Cossack.[4]
Trong thời gian diễn ra chiến dịch, những người Tiệp Khắc yêu nước, chống phát xít đã nổi dậy khởi nghĩa tại Praha, làm phá sản kế hoạch biến Praha thành một Berlin thứ hai của Bộ Tổng tư lệnh tối cao lục quân Đức và chính phủ của đô đốc Karl Dönitz, bảo toàn tương đối nguyên vẹn một số công trình kiến trúc có giá trị lịch sử của thủ đô Praha cổ kính.
Kết thúc chiến dịch, quân đội Liên Xô và quân đội Hoa Kỳ đã gặp nhau trên tuyến phân giới České Budějovice - Plzeň - Karlovy Vary. Đây là tuyến giới hạn tấn công được I. V. Stalin, Franklin D. Roosevelt và Winston Churchill thỏa thuận tại Hội nghị Yalta từ ngày 4 đến 11 tháng 2 năm 1945.[5]