Arielvệ tinh lớn thứ tư trong số 27 vệ tinh đã biết của sao Thiên Vương. Ariel quay trong mặt phẳng xích đạo của sao Thiên Vương, gần như vuông góc với quỹ đạo của sao Thiên Vương, và do đó có một chu kỳ mùa rất đột ngột.

Thông tin Nhanh Khám phá, Khám phá bởi ...
Ariel Biểu tượng Ariel
Thumb
Ariel
Khám phá
Khám phá bởiWilliam Lassell
Ngày phát hiện24 tháng 10 năm 1851
Tên định danh
Phiên âm/ˈæriəl/ ARR-ee-əl[1]
Tên thay thế
Uranus I
Tính từArielian
Đặc trưng quỹ đạo[2]
191020 km
Bán kính quỹ đạo trung bình
190900 km
Độ lệch tâm0,0012
2,520 d
5,51 km/s[a]
Độ nghiêng quỹ đạo0,260° (so với xích đạo của Sao Thiên Vương)
Vệ tinh củaSao Thiên Vương
Đặc trưng vật lý
Kích thước1162,2×1155,8×1155,4 km[3]
Bán kính trung bình
578,9±0,6 km (0,0908 lần Trái Đất)[3]
4211300 km2[b]
Thể tích812600000 km3[c]
Khối lượng(1,353±0,120)×1021 kg (2,26×10−4 lần Trái Đất)[4]
Mật độ trung bình
1,592±0,15 g/cm3[5]
0,27 m/s2[d]
0,558 km/s[e]
đồng bộ
Suất phản chiếu
  • 0,53 (hình học)
  • 0,23 (Bond)[6]
Nhiệt độ bề mặt cực tiểu trung bình cực đại
tại điểm chí[7][8] ? 60 K 84 ± 1 K
14,4 (R-band)[9]
Đóng

Vệ tinh này được William Lassell phát hiện vào tháng 10 năm 1851, và đặt tên cho một nhân vật trong hai mảng khác nhau của văn học. Tính đến năm 2012, phần lớn các thông tin chi tiết của Ariel thu được từ một lần bay ngang duy nhất qua sao Thiên vương do tàu vũ trụ Voyager 2 thực hiện vào năm 1986, và chụp ảnh được khoảng 35% diện tích bề mặt của vệ tinh này. Hiện tại không có kế hoạch nào nghiên cứu vệ tinh này chi tiết hơn nữa, mặc dù nhiều dự án phóng tàu thăm dò Sao Thiên Vương đã được đề xuất.

Sau Miranda, Ariel là vệ tinh nhỏ thứ hai của năm vệ tinh quay xung quanh sao Thiên Vương, và là vệ tinh thứ hai tính từ trong cùng. Đây là một trong các vệ tinh nhỏ nhất trong số 19 vệ tinh có hình cầu được biết đến của hệ Mặt Trời (xếp thứ 14 đường kính), nó được cấu trúc từ hai vật liệu băng và đá với khối lượng gần như tương đương. Giống như tất cả các mặt trăng của sao Thiên Vương, Ariel có thể hình thành từ một đĩa bồi tụ bao quanh hành tinh này trong thời gian ngắn sau khi kiến tạo sao, và giống như các vệ tinh lớn khác, đó là sự phân biệt về địa chất, với một lõi đá bên trong bao quanh bởi một lớp vỏ băng. Ariel có một bề mặt phức tạp bao gồm địa hình bị cắt gọt thành hàng loạt các vách núi, hẻm núi và rặng núi. Bề mặt của nó cho thấy dấu hiệu của hoạt động địa chất gần đây hơn vệ tinh khác, có thể do nhiệt triều.

Phát hiện và đặt tên

Vệ tinh Ariel được thương gia, nhà nghiên cứu thiên văn học người Anh William Lassell (18 tháng 6 năm 1799 - 5 tháng 10 năm 1880) phát hiện tháng 10 năm 1851, cùng với vệ tinh khác của Sao Thiên VươngUmbriel.[10][11] Tên gọi được đặt theo tên của tinh linh trong vở kịch Giông tố của William Shakespeare và bài thơ The Rape of the Lock của nhà thơ Alexander Pope.

Quỹ đạo

Cấu tạo

Bề mặt

Nguồn gốc và tiến hóa

Quan sát và thăm dò

Xem thêm

Chú thích

  1. Calculated on the basis of other parameters.
  2. Surface area derived from the radius r: .
  3. Volume v derived from the radius r: .
  4. Surface gravity derived from the mass m, the gravitational constant G and the radius r: .
  5. Escape velocity derived from the mass m, the gravitational constant G and the radius r: 2Gm/r.

Tham khảo

Liên kết ngoài

Wikiwand in your browser!

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.

Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.