Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam (tiếng Nga: Группа советских военных специалистов во Вьетнаме) là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) theo lời mời của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cá nhân Hồ Chí Minh và hỗ trợ quân sự và kỹ thuật cho Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDT). Theo Tổng cục Tác chiến của Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô, từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1974, 6,359 tướng lĩnh, sĩ quan và hơn 4,500 lính nghĩa vụ đã được cử sang Việt Nam với tư cách là chuyên gia quân sự của Liên Xô. Có nhiều sĩ quan tiền phương (chỉ huy trung đoàn và tiểu đoàn tên lửa phòng không, và chỉ huy trung đội cao cấp) đã có kinh nghiệm trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Một số ít chuyên gia quân sự và dân sự từ các nước xã hội chủ nghĩa như Bungari, Tiệp Khắc và Cuba cũng giúp Bắc Việt Nam chống lại lực lượng Hoa Kỳ và lực lượng phụ trợ từ các nước khác.
Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam | |
---|---|
Một Trung đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô thuộc Trung đoàn tên lửa phòng không 238 của Quân đội Nhân dân Việt Nam. | |
Hoạt động | 1961-1991 |
Quốc gia | Việt Nam |
Phục vụ | Liên Xô → Nga |
Quân chủng | Nhóm phi công vận tải (1961-1965) Nhóm chuyên gia quân sự (1965-1974) Nhóm cố vấn quân sự (1974-1991) Trung tâm hậu cần (1991-2001) |
Phân loại | Nhóm Tên lửa phòng không, sửa chữa và phục hồi, không quân, hải quân, tình báo |
Chức năng | Hỗ trợ quân sự cho Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam |
Quy mô | Tùy vào thời điểm và các nhiệm vụ thực hiện |
Tên khác | Liên Xô[1][2] |
Khẩu hiệu | Không được động đến Việt Nam! "Liên Xô, Việt Nam, Hữu nghị"[3] |
Tham chiến | Tham chiến |
Trận chiến | Chiến tranh Đông Dương Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai Chiến tranh Việt Nam (1957-1975) Nội chiến Lào (1960-1973) Nội chiến Campuchia (1967-1975) Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba Chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, 1979 Xung đột Việt Trung (1979-1991) Hải chiến Trường Sa (1988) |
Dữ liệu về tổn thất trong thời kỳ chiến tranh khác nhau và dao động từ từ bảy đến mười sáu người. Theo Đại tá An ninh Nhà nước I.N. Morozov, ngoài những người chết, còn có vài chục người bị thương, cũng như những người bị chứng rối loạn thần kinh do chấn động và rối loạn tâm thần kèm theo hậu quả của các cuộc bắn phá thường xuyên trên không.
Trong giai đoạn sau chiến tranh (1975-2002), 44 quân nhân Liên Xô đã chết tại Việt Nam (chủ yếu là do tai nạn hàng không). Tên của họ được chạm nổi trên phiến đá granit của Khu tưởng niệm ở Cam Ranh.
Lý do viện trợ quân sự cho Bắc Việt Nam là do tình hữu nghị khi xem Việt Nam là một nước quan trọng về chiến lược của Liên Xô tại Đông Nam Á.
Bắt đầu từ tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ đã phát động một "cuộc chiến trên không" chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó người Mỹ đã thực hiện hơn hai triệu phi vụ (trong đó có nửa triệu phi vụ chiến đấu) vào miền Bắc Việt Nam. Sự hỗ trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cản trở ưu thế trên không chiến lược của Mỹ.
Bằng cách phân tán iốt chì và bạc trong các đám mây mưa, người Mỹ đã gây ra những trận mưa lớn gây khó khăn cho việc di chuyển quân và thiết bị, làm ngập lụt các khu vực rộng lớn, làm xấu đi không chỉ nguồn cung cấp quân đội mà còn cả điều kiện sống của toàn bộ dân cư. Khoảng 43% tổng diện tích cây trồng của miền Nam Việt Nam và 44% diện tích rừng bị ảnh hưởng bởi chất độc thực vật. Tất cả các chất độc thực vật được sử dụng đều được chứng minh là độc hại đối với người và động vật máu nóng. Tất cả những điều này cuối cùng đã khiến Liên Hợp Quốc thông qua Công ước về "Cấm quân sự hoặc bất kỳ hành vi thù địch nào khác sử dụng các kỹ thuật sửa đổi môi trường", phù hợp với nghị quyết của Đại hội đồng 31/72 ngày 10 tháng 12 năm 1976, cấm sử dụng môi trường như một phương pháp chiến tranh.
Việc ném bom vào Việt Nam trong toàn bộ thời kỳ chiến tranh, ngoại trừ năm 1972 (Chiến dịch Linebacker 2), có bản chất chiến lược. Trong Chiến dịch Sấm Rền vào tháng 9 năm 1967, người Mỹ đặc biệt chú trọng vào việc phá hủy cơ sở hạ tầng hậu cần: nhà máy, bến cảng, nhà máy điện, nhà kho và cơ sở lưu trữ, cầu và giao lộ vận tải, thông tin liên lạc đường bộ và đường sắt, tàu thủy, tàu hỏa, xe tải. Mặt khác, các phi công Hoa Kỳ phàn nàn rằng họ bị cấm ném bom các tàu Liên Xô mà từ đó các tên lửa phòng không được đưa vào.
Hầu như toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một chiến trường của các hoạt động quân sự, và khái niệm “hậu phương” không tồn tại ở đó.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Đông Dương trong Chiến tranh Lạnh, các chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam đảm bảo các lợi ích chính trị và quân sự chiến lược của Liên Xô ở Đông Nam Á và kiểm soát thông tin liên lạc hàng hải bằng cách giám sát hoạt động các tàu hải quân Hoa Kỳ và các nước NATO khác và Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên các vùng biển của Biển Đông, Biển Philippines, Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.