Đại học Trung văn Hồng Kông
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đại học Trung văn Hồng Kông (tiếng Trung: 香港中文大學, tiếng Anh: The Chinese University of Hong Kong - CUHK)[5][6][7] là trường đại học nghiên cứu công lập ở Sa Điền, Hồng Kông, chính thức thành lập vào năm 1963 bằng khế ước đại học do Hội lập pháp Hồng Kông trao. Trường là đại học lâu đời thứ hai của Hồng Kông, ban đầu là liên viện của ba học viện đang có, Học viện Sùng Cơ, Thư viện Tân Á và Thư viện liên hợp, viện lâu đời nhất thành lập vào năm 1949.[8]
香港中文大學 The Chinese University of Hong Kong (CUHK) | |||||||||||||||
Huy hiệu[chú thích 1] | |||||||||||||||
Khẩu hiệu | 博文約禮 (Văn ngôn) | ||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Khẩu hiệu trong Tiếng Anh | Through learning and temperance to virtue | ||||||||||||||
Loại hình | Công lập | ||||||||||||||
Thành lập | 13 tháng 10 năm 1963 | ||||||||||||||
Chủ tịch Hội đồng trường | Norman Leung | ||||||||||||||
Hiệu trưởng danh dự | Lâm Trịnh Nguyệt Nga (Trưởng quan hành chính Hồng Kông) | ||||||||||||||
Phó giám đốc | Đoàn Sùng Trí | ||||||||||||||
Phó hiệu trưởng | Alan K. L. Chan | ||||||||||||||
Pro-Vice-Chancellors | Trương Diệu Thanh, Fok Tai-fai, Trương Diệu Thanh, Poon Wai-yin, Dennis K. P. Ng, Chan Wai-yee, Eric S. P. Ng | ||||||||||||||
Giảng viên | 1,697[1] | ||||||||||||||
Sinh viên | 20,608[2] | ||||||||||||||
Sinh viên đại học | 17,038 (82.68%)[3] | ||||||||||||||
Sinh viên sau đại học | 3,570 (17.32%)[3] | ||||||||||||||
Vị trí | Sa Điền, Hồng Kông 22°25′11″B 114°12′24,45″Đ | ||||||||||||||
Khuôn viên | Nông thôn 137,3 hécta (1,373 km2) | ||||||||||||||
Ngôn ngữ | en | ||||||||||||||
Màu | Tím & vàng | ||||||||||||||
Liên kết | ASAIHL, ACU, IAU, WUN, ACUCA, Washington University in St. Louis McDonnell International Scholars Academy[4] | ||||||||||||||
Linh vật | Phượng hoàng | ||||||||||||||
Website | www | ||||||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||||||
Phồn thể | 香港中文大學 | ||||||||||||||
Giản thể | 香港中文大学 | ||||||||||||||
Tiếng Quảng Châu Yale | Hēunggóng Jūngmàhn Daaihhohk | ||||||||||||||
| |||||||||||||||
Đại học Trung văn Hồng Kông tổ chức thành chín viện, tám phân khoa và là trường đại học học viện duy nhất của Hồng Kông. Trường dùng tiếng Anh lẫn tiếng Trung Quốc, mặc dù môn ở hầu hết các học viện đều dạy bằng Anh ngữ. Bốn người đắc thưởng Nobel liên hệ với trường, là tổ chức đại học duy nhất của Hồng Kông có người đoạt giải Nobel, Giải Turing, Huy chương Fields và Giải Veblen làm giáo sư.[9]