Tripoli, Liban
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tripoli (tiếng Ả Rập: طرابلس / ALA-LC: Ṭarābulus;[lower-alpha 1] tiếng Ả Rập Liban: Ṭrāblos;[2] tiếng Hy Lạp: Τρίπολις / Tripolis) là thành phố lớn nhất miền bắc Liban và là thành phố lớn thứ hai nước này, cách thủ đô Beirut 85 km về phía bắc. Tripoli là tỉnh lỵ tỉnh Bắc của Liban, đồng thời là quận lỵ của quận Tripoli. Thành phố hướng thẳng ra Địa Trung Hải và là cảng xa nhất về phía đông của Liban. Ngoài khơi thành phố có bốn đảo nhỏ, trong đó đảo lớn nhất đã được UNESCO tuyên bố là khu bảo tồn thiên nhiên vào năm 1992 nhờ sở hữu hệ sinh thái đa dạng.
Tripoli طرابلس Ṭarābulus | |
---|---|
— Thành phố — | |
Theo chiều đồng hồ từ góc trên bên trái: Thành Raymond de Saint-Gilles, ngọn tháp của Đại Thánh đường Hồi giáo Mansouri, một nét kiến trúc Mamluk, quang cảnh vịnh, nhà thờ Công giáo Syriac | |
Tọa độ: 34°26′B 35°51′Đ | |
Quốc gia | Liban |
Tỉnh | Bắc |
Quận | Tripoli |
Diện tích | |
• Thành phố | 14 km2 (5 mi2) |
• Vùng đô thị | 41 km2 (16 mi2) |
Dân số | |
• Thành phố | 192,572 |
• Vùng đô thị | 530.000 |
Múi giờ | +2 |
• Mùa hè (DST) | +3 (UTC) |
Mã điện thoại | 06 |
Thành phố kết nghĩa | Larnaca, Manama |
Trang web | tripoli-city.org |
Với lịch sử bắt đầu từ thế kỷ 14 trước Công nguyên, Tripoli là nơi có pháo đài Raymond de Saint-Gilles lớn nhất Liban và là thành phố theo lối kiến trúc Mamluk lớn thứ hai sau Cairo, Ai Cập. Thời cổ đại, thành phố là trung tâm của bang liên Phoenicia bao gồm Týros, Sidon và Arados, vì vậy mới được gọi là Tripoli, nghĩa là "ba thành phố" trong tiếng Hy Lạp. Thành phố từng nằm dưới sự cai trị của Assyria, Nhà Achaemenes, Đế quốc La Mã, Đế quốc Đông La Mã, Quốc gia Thập tự chinh, các chiến binh Mamluk, Đế quốc Ottoman và Pháp. Quân Thập tự chinh đã thiết lập bá quốc Tripoli tại đây vào thế kỷ 12.
Từng một thời ngang hàng với Beirut về kinh tế và thương mại nhưng cùng với sự thành lập Liban, Tripoli bị cắt đứt khỏi các mối quan hệ buôn bán truyền thống với nội địa Syria và suy giảm tương đối về mặt thịnh vượng.[3]