Là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nam Minh, cũng là vị vua cuối cùng của cơ nghiệp Đại Minh. Trong đời cai trị của ông chỉ có 1 niên hiệu là Vĩnh Lịch From Wikipedia, the free encyclopedia
Minh Chiêu Tông (chữ Hán: 明昭宗; 1 tháng 11 năm 1623 – 1 tháng 6 năm 1662), tên thật là Chu Do Lang (朱由榔), ông cai trị trong khoảng thời gian từ năm 1646 – 1662, là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nam Minh, cũng là vị vua cuối cùng của cơ nghiệp Đại Minh, đây là hoàng đế người Hán cuối cùng ở Trung Quốc. Trong đời cai trị của ông chỉ có 1 niên hiệu là Vĩnh Lịch (nghĩa là: trị nghiệp vĩnh viễn) nên còn gọi là Vĩnh Lịch Đế (永历帝).
Minh Chiêu Tông 明昭宗 | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế Trung Hoa | |||||||||||||||||
Hoàng đế Nhà Nam Minh | |||||||||||||||||
Tại vị | 18 tháng 11 năm 1646 – 1 tháng 6 năm 1662 | ||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Minh Thiệu Tông | ||||||||||||||||
Kế nhiệm | Triều đại sụp đổ | ||||||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||||||
Sinh | 1 tháng 11 năm 1623 | ||||||||||||||||
Mất | 1 tháng 6 năm 1662 | ||||||||||||||||
An táng | Minh Vĩnh Lịch lăng (明永历陵) | ||||||||||||||||
Phối ngẫu | Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu | ||||||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Thân phụ | Quế Đoan vương Chu Thường Doanh | ||||||||||||||||
Thân mẫu | Chiêu Thánh Hoàng thái hậu |
Chu Do Lang là cháu nội của Minh Thần Tông, cha của ông là Quế Đoan vương Chu Thường Doanh (桂端王.朱常瀛) – Hoàng tử thứ 7 của Thần Tông. Sau khi anh trai của ông qua đời mà không có người nối dõi, Chu Do Lang được tập phong làm Quế vương (桂王).
Tháng 10 năm 1646, Long Vũ Đế Chu Duật Kiện bị quân Thanh bắt giết. Sau khi chính quyền Long Vũ diệt vong, Chu Duật Việt, em của Long Võ Đế từ Phúc Kiến chạy đến Quảng Châu. Tháng 12 năm đó, quần thần Nam Kinh tôn Việt làm Đế, cải nguyên là Thiệu Vũ (绍武). Sau khi Thiệu Võ Đế lên ngôi, trong tháng đó Chu Do Lang cũng lên ngôi tại Triệu Khánh, lấy niên hiệu là Vĩnh Lịch. Hai bên đánh nhau liên miên để tranh đoạt địa vị chính thống. Lý Thành Đống (李成栋) của quân Thanh thừa lúc 2 bên tàn sát lẫn nhau đã tiến đánh khu vực Triều Châu, Huệ Châu của Quảng Đông, lệnh cho quan lại đã đầu hàng giữ nghiêm bí mật, khiến Thiệu Vũ Đế không biết chuyện.
Ngày 25 tháng 12 năm đó, quân Thanh đột nhiên tấn công Quảng Châu, Thiệu Vũ Đế bị bắt, tối đó ông thắt cổ tự vẫn[1][2]. Trước sự tấn công ồ ạt của quân Thanh, Vĩnh Lịch Đế buộc phải rút về Quế Lâm, rồi từ đó chạy về Giang Tây, Hồ Nam rồi Nam Ninh. Năm 1658, Quế vương rút lui về Côn Minh ở Vân Nam.
Sau hàng loạt chiến thắng lẫy lừng tại Quế Lâm, Hành Dương của Lý Định Quốc, không ngờ chỉ vì những hiềm khích, nghi kỵ lẫn nhau do các tướng soái dưới quyền gây ra mà dẫn đến biết bao rắc rối. Năm 1661, ông chạy sang Miến Điện náu thân. Lý Định Quốc đã tích cực cho người trốn đến Miến Điện liên lạc với Quế vương, tự mình đưa quân đến để đón rước. Khi quân Minh và Miến Điện xảy ra xung đột, Vĩnh Lịch Đế chỉ muốn cầu an, hạ chiếu cho Lý Định Quốc rút quân trở về. Định Quốc xem chiếu mà đau xót, than rằng: "Đại Minh hết rồi!".
Lúc này, quân Thanh đã tiến sát biên giới Trung – Miến, người Miến đem Vĩnh Lịch Đế giao nộp cho phản tướng Ngô Tam Quế[3][4]. Ngô Tam Quế sai người bí mật thắt cổ ông trong một tòa miếu nhỏ tại Côn Minh[5].
Trịnh Kinh (con trưởng của Trịnh Thành Công) dâng thuỵ cho Vĩnh Lịch Đế là Ưng Thiên Thôi Đạo Mẫn Nghị Cung Kiệm Kinh Văn Vĩ Vũ Thể Nhân Khắc Hiếu Khuông Hoàng đế (應天推道敏毅恭儉經文緯武體仁克孝匡皇帝), đặt miếu hiệu là Chiêu Tông (昭宗), đồng thời truy phong cho vợ con của Vĩnh Lịch Đế.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.