Văn tế tướng sĩ trận vong là một bài văn tế do Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc để tế các tướng sĩ của vua Gia Long đã bỏ mình trong cuộc chiến với quân Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Có ba người được cho là tác giả của bài văn tế trên. Cụ thể như sau:
- Một số nhà nghiên cứu, ví dụ như nhà văn hóa Phạm Quỳnh[1] hay nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm,[2] cho rằng bài văn tế do bản thân Tiền Quân Nguyễn Văn Thành, vốn có tiếng là người hay chữ nhất trong các quan võ của Gia Long và là người đã cùng Gia Long vào sinh ra tử trong cuộc chiến mấy mươi năm, tự soạn và đứng chủ tế.
- Tuy nhiên, theo GS. Nguyễn Lộc, thì bài văn tế do một người khác là ông Nguyễn Huy Lượng soạn. GS Lộc giải thích "để làm lễ tế các tướng sĩ tử trận, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành có nhờ Nguyễn Huy Lượng và Phan Huy Ích mỗi người làm một bài văn tế. Và Nguyễn Huy Lượng đã dâng lên bài Văn tế tướng sĩ trận vong mà xưa nay hay cho là của ông Thành" [3].
- Nguyên Thang bác bỏ 2 luận điểm trên, và cho rằng rất có thể Vũ Trinh mới thực sự là tác giả[4] của áng văn bất hủ này. Và Nguyên Thang lập luận rằng Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Ích đã tận tụy phục vụ triều Tây Sơn là đối nghịch triều Nguyễn, thậm chí Phan Huy Ích từng bị hình phạt của triều Nguyễn đánh bằng roi ở Văn Miếu thì không thể nào ca tụng tinh thần quả cảm hi sinh của tướng sĩ nhà Nguyễn trước quân Tây Sơn.
Nhà giáo Dương Quảng Hàm viết:
- Bài "Văn tế tướng sĩ trận vong" của quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành đọc khi tế các tướng sĩ đã chết trận trong hồi theo vua Gia Long đánh dẹp các nơi. Trong bài, lấy cái cảm tình của một ông võ tướng mà giãi bày công trạng anh hùng của kẻ đã qua, thổ lộ tấm lòng thương tiếc của người còn lại, lời văn thống thiết, giọng văn hùng hồn, thật là một bài văn tế rất hay.[5]
- "Văn tế Trận Vong Tướng Sĩ" là một bài văn tế khác biệt hẳn các bài văn tế theo lề lối tán tụng ở điểm lòng thành thực, mối tình cảm của người viết đồng thời chính là người chủ động các công việc được kể đến trong bài.
Bài được chia thành 4 phần:
- Lung khởi: từ "Than ôi"...đến "danh ấy thọ"
- Thích thực: từ "Xót thay"...đến "cổ độ"
- Ai vãn: từ "Ôi cùng lòng trung nghĩa"...đến "sao chẳng có"
- Kết: từ "Bản chức nay"...đến "vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ"
- Than ôi! Trời Đông Phố vận ra Sóc Cảnh [6], trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay; nước Lô hà chảy xuống Lương giang [7], nghĩ mấy kẻ điêu linh [8] những từ thuở nọ, cho hay sinh là ký mà tử là quy; mới biết mệnh ấy yểu mà danh ấy thọ.
- Xót thay! Tình dưới viên mao [9], phận trong giới trụ [10]. Ba nghìn họp con em đất Bái [11], cung tên ngang dọc chí nam nhi; hai trăm vây cờ cõi non Kỳ [12], cơm áo nặng dầy ơn cựu chủ...
- ...Trước từng trải Xiêm La, Cao Miên về Gia Định mới dần ra Khánh, Thuận [13], đã mấy buổi sơn phong hải lễ [14], trời Cao, Quang [15] soi tỏ tấm kiên trinh, rồi lai từ Đồn Bàn, Nam, Ngãi lấy Phú Xuân mà thẳng tới Thăng Long [16], biết bao phen vũ pháo vân thê [17], đất Lũng, Thục [18] lăn vào nơi hiểm cố.
- ...Bản chức nay, vâng việc biên phòng, chạnh lòng niềm viễn thú. Dưới trướng nức mùi chung đỉnh, sực nhớ khi chén rượu rót đầu ghềnh; trong nhà rõ vẻ áo xiêm, chạnh nghĩ buổi tấm cừu vung trước gió. Bâng khuâng kẻ khuất với người còn; tưởng tượng thầy đâu thì tớ đó.
- Nền phủ định [19] tới đây còn xốc nỗi, vu lòng một lễ, chén rượu thoi vàng; chữ tương đồng ngẫm lại vốn đinh ninh, khắp mặt ba quân, cờ đào nón đỏ, có cảm thông thì tới đó khuyên mời; dù linh thinh hãy nghe lời dặn dỗ.
- Buổi chinh chiến hoặc oan hay chẳng, cũng chớ nề kẻ trước người sau, hàng trên lớp dưới, khao thưởng rồi sẽ tấu biểu dương cho; hội thăng bình đừng có nghĩ rằng không, dù ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết, cũng ban tồn tuất đủ.
- Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu [20]; hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ [21].
- Cơ huyền diệu [22] hoặc thâm trầm chưa rõ, thiêng thời về cố quận, để hương thơm lửa sáng, kiếp tái sinh lại nhận cửa tiền quân [23]; niềm tôn thân dù sinh tử chớ nề, linh thời hộ Hoàng triều cho bể lặng sóng trong, duy vạn kỷ chửa dời ngôi bảo tộ [24].
- Thạch Trung Giả[25] viết: "Hùng hồn và thống thiết là đặc điểm của áng văn này. Ngoài ra, những nét gợi cảm đến dựng đứng tóc gáy cho ta thấy vết tích của nghệ thuật Lê mạt với những Đặng Trần Côn, Ôn Như Hầu, và cái vẻ trang nghiêm đanh thép dự báo cho ta thời thịnh Nguyễn với những Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát..."[26]
- Học giả Phạm Quỳnh cho rằng: "Hay vì lời: lời đáng ghi vào vàng đá, truyền đến muôn đời; khi 'gióng giả như dịp trống trong quân', khi 'tơi bời như ngọn cờ dưới nguyệt', khi 'mịt mù như cơn gió lốc thổi dấu kẻ tha hương’, khi ‘lập lòe như đám lửa trơi, soi chừng đám cổ độ’, khi 'hùng tráng như tiếng gươm tuốt trong trận', khi 'lâm li như tiếng vượn khóc trên ngàn'. Hay vì ý tứ: ý tứ thâm trầm, muốn biểu dương công nghiệp của kẻ quân nhân đã giúp bản triều gây dựng nên cơ đồ vĩ đại, người sống đã hết phận truy tùy, ‘chung nỗi ân ưu mà riêng phần lao khổ’, kẻ chết cũng còn hộ được ‘Hoàng triều cho bể lặng sóng trong’…"[1]
- Cố thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt có nói: "Đầu thế kỷ 19, sau hơn 200 năm chiến tranh triền miên, hòa bình lập lại, ông Nguyễn Văn Thành đã thay mặt triều đình viết Văn tế tướng sĩ trận vong; và trong nhân dân, đại thi hào Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn là vừa để giải thoát những đau thương về tinh thần và tâm linh đè nặng tâm hồn dân tộc, vừa để hướng dẫn đời sống tâm hồn và đạo lý của những người đang sống."[27]
Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn học sử yếu, Trung tâm Học liệu thuộc Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1968, trang 321
Theo GS. Nguyễn Lộc, mục từ "Nguyễn Huy Lượng", trong Từ điển Văn học (bộ mới. Nhà xuất bản Thế giới, tr. 1148). Và theo GS. Lộc, thì bài văn tế này được làm năm 1804. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng bài văn tế này làm cuối năm 1802. Vì trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên (Đệ Nhất Kỷ, quyển XVIII), có đoạn: "Bàn đặt chức Tổng Trấn Bắc Thành, Vua sắp hồi loan dụ bày tôi rằng: "Nay võ công đã yên mà ta chưa bái yết Thái Miếu, huống chi hai, ba năm nay xa cách Từ Cung, mối quạt nồng ấm lạnh, canh cánh bên lòng. Nếu cứ ở ngoài mãi để đợi đại điển bang giao (nhận Sắc phong nhà Thanh – 1804) thì lòng ta có chỗ không yên. Vậy nên bàn việc hồi loan. Duy đất Bắc Hà vừa dẹp yên, dân vật đều mới, mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc hà cần có trọng thần giữ mới được". Điều này cho thấy bài Văn tế tướng Sĩ trận vong được soạn đọc trong lễ tế, sau khi Gia Long ở Bắc Hà về kinh đô một tháng ("vâng thượng đức hồi loan tháng trước"). Vậy, việc tế lễ có thể diễn ra vào khoảng cuối năm 1802.
Nguyên Thang (08/2012). “Phải chăng Vũ Trinh là tác giả Áng văn tế trận vong tướng sĩ?”. Tạp chí Nhà văn.
Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968, tr. 321
Đông Phố là tên cũ thành Gia Định; Sóc Cảnh là cõi Bắc; ý nói từ Gia Định ra tới Bắc Hà (Hà Nội).
Lô hà nhất danh là sông Tuyên, chảy qua Tuyên Quang, rồi đổ xuống sông Nhị hà. Lương giang tức là Phú Lương giang tên cũ sông Nhị hà.
Điêu linh là tàn rụng, chỉ những người chẳng may chết trận.
Viên là viên môn, cửa dinh (doanh) quan đại tướng; mao là cờ tiết mao, hiệu lệnh trong quân.
Giới trụ là áo giáp, mũ trụ của tướng sĩ.
Vua Hán Cao Tổ ở bên Tàu khi khởi binh ở ấp Bái, họp con em ba nghìn người; đây ví những người theo đức Gia Long cũng khảng khái như bọn quan sĩ vua Hán Cao Tổ vậy.
Tên núi ở tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, có tiếng là hiểm trở, chỉ hai trăm người địch nổi hai nghìn người; vua Văn Vương nhà Chu sáng nghiệp ở đấy; đây sánh những người theo vua Gia Long cũng hăng hái như bọn quân sĩ vua Chu Văn Vương vậy.
Là Thanh Hóa và Bình Thuận.
Sơn phong là gió núi; khi đức Gia Long đóng ở đảo Côn Lôn, quân Tây Sơn chợt đến vây nguy cấp lắm, bỗng dưng trời nổi bão tố, thuyền Tây Sơn đắm cả, vua mới thoát vây. Hải lễ là nước ngọt ở bể; khi vua Gia Long đương phải chạy trốn ở ngoài bể, hết cả nước ngọt uống, vua mới khấn trời, chợt thấy ở dưới bể có dòng nước ngọt, múc nước uống mới khỏi khát.
Đây ví vua Gia Long cũng như vua Hán Cao Tổ và Hán Quang Vũ là hai ông vua sáng nghiệp trung hưng ở bên Tàu.
Đồn Bàn là kinh đô cũ của người Chiêm Thành, tức là thành Bình Định, Nam, Ngãi là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Phú Xuân là Huế, Thăng Long là Hà Nội.
Là đạn nhiều như mưa, thang cao giáp mây.
Đây ví các thành tỉnh ấy cũng hiểm cố như đất Lũng là Lũng Tây (ở tỉnh Thiểm Tây) và đất Thục là Tứ Xuyên ở bên Tàu.
Theo chữ (can qua phủ định) việc đánh dẹp vừa yên.
Là vua Nghiêu vua Thuấn bên Tàu, hai đời vua thái bình sánh với đời vua Gia Long.
Là vua Thang vua Vũ hai đời vua thịnh trị bên Tàu sánh với đời vua Gia Long.
Máy trời đất xoay vần bí mật và thần diệu.
Ý nói: Nếu sống lại kiếp sau thì nên đến cửa dinh tiền quân mà nhận.
Ý nói: nếu có khôn thiêng thì nên phù hộ nhà vua được thái bình để ngôi vua (ngôi bảo tộ) truyền mãi đến muôn đời về sau.
Giáo sư, Nhà nghiên cứu Thạch Trung Giả tên thật là Trần Văn Long (?-1975), dạy Quốc văn và Triết học tại Nha Trang thời Việt Nam công hòa
Văn học phân tích toàn thư, Nhà xuất bản Lá bối, Sài Gòn, 1973, tr. 225