Thiên Ưng (天鷹), còn gọi là Đại Bàng (tiếng Latinh: Aquila) là một trong 48 chòm saoPtolemy và cũng là một trong 88 chòm sao hiện đại, nằm gần xích đạo thiên cầu. Sao sáng nhất trong chòm sao là sao Ngưu Lang (Altair), là một trong các đỉnh của Tam Giác Mùa Hè.
Nhìn thấy ở vĩ độ giữa +90° và −75°. Nhìn thấy rõ nhất lúc 21:00 (9 giờ tối) vào tháng Tháng 8.
Đóng
Chòm sao Thiên Ưng là một trong 48 chòm sao theo miêu tả của Plotemy thời Hy Lạp cổ đại. Nó cũng được nhắc tới bởi Eudoxus vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên và Aratus vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.[3]
Nó hiện là một trong 88 chòm sao được xác định bởi Liên đoàn Thiên văn Quốc tế. Chòm sao này còn được gọi là Vultur volans (kền kền bay) bởi người La Mã. Nó thường được coi là đại diện cho con đại bàng cầm lưỡi tầm sét của thần Zeus / Jupiter trong thần thoại Hy Lạp / La Mã. Chòm sao Thiên Ưng cũng có liên quan đến con đại bàng đã bắt cóc Ganymede (có liên quan đến chòm sao Bảo Bình) lên đỉnh Olympus để làm người bưng cốc cho các vị thần.[1]
Sứ mệnh Pioneer 11 của NASA đã bay qua Sao Mộc và Sao Thổ trong thập niên 1970 và sẽ đến gần sao Lambda Aquilae của chòm sao Thiên Ưng trong khoảng 4 triệu năm tới.[4]
γ Aql (Tarazed) là một ngôi sao khổng lồ cam có độ sáng khoảng 2,7,[13] cách Trái Đất 460 năm ánh sáng. Đây là ngôi sao sáng thứ hai trong chòm sao này và là một sao biến quang chưa được xác nhận.[14]
η Aql là một sao siêu khổng lồ màu trắng vàng, cách Trái Đất 1200 năm ánh sáng. Trong số các sao biến quang Cepheid sáng nhất, nó có cấp sao tối thiểu là 4,4 và cấp sao tối đa là 3,5 với chu kỳ 7,177 ngày.[1] Sự biến quang ban đầu được Edward Pigott quan sát thấy vào năm 1784.[15] Ngoài ra còn có hai ngôi sao đồng hành quay quanh sao siêu khổng lồ: một ngôi sao dãy chính loại B[16] và một ngôi sao dãy chính loại F.[17]
15 Aql là một sao đôi quang học. Ngôi sao chính là một sao khổng lồ cam có cấp sao 5,41 và quang phổ K1 III,[18][19] cách Trái Đất 325 năm ánh sáng. 15 Aql có thể được quan sát dễ dàng qua các kính thiên văn nghiệp dư nhỏ.[1]
ρ Aql đi qua biên giới chòm sao Hải Đồn vào năm 1992,[20][21] và là một ngôi sao loại A có độ kim loại thấp hơn Mặt Trời.[22]
Tân tinh
Một tân tinh đã được quan sát thấy trong chòm sao Thiên Ưng vào năm 1918 (Nova Aquilae 1918) và sáng hơn cả sao Ngưu Lang, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng, trong một thời gian ngắn. Nó được Zygmunt Laskowski quan sát lần đầu tiên[23] và được xác nhận vào đêm ngày 8 tháng 6 năm 1918.[24] Nova Aquilae 1918 đạt cấp sao biểu kiến cực đại là −0,5 và là tân tinh sáng nhất được ghi nhận kể từ khi phát minh ra kính viễn vọng.[25]
Monnier, J. D.; Zhao, M; Pedretti, E; Thureau, N; Ireland, M; Muirhead, P; Berger, J. P.; Millan-Gabet, R; Van Belle, G; Ten Brummelaar, T; McAlister, H; Ridgway, S; Turner, N; Sturmann, L; Sturmann, J; Berger, D (2007). “Imaging the surface of Altair”. Science. 317 (5836): 342–345. arXiv:0706.0867. Bibcode:2007Sci...317..342M. doi:10.1126/science.1143205. PMID17540860. S2CID4615273. See second column of Table 1 for stellar parameters.Quản lý CS1: postscript (liên kết)
Peterson, D. M.; Hummel, C. A.; Pauls, T. A.; và đồng nghiệp (2006). “Resolving the Effects of Rotation in Altair with Long‐Baseline Interferometry”. The Astrophysical Journal. 636 (2): 1087–1097. arXiv:astro-ph/0509236. Bibcode:2006ApJ...636.1087P. doi:10.1086/497981. S2CID18683397. See Table 2 for stellar parameters.
Montes, D.; và đồng nghiệp (tháng 9 năm 2018), “Calibrating the metallicity of M dwarfs in wide physical binaries with F-, G-, and K-primaries - I: High-resolution spectroscopy with HERMES: stellar parameters, abundances, and kinematics”, Monthly Notices of the Royal Astronomical Society, 479 (1): 1332–1382, arXiv:1805.05394, Bibcode:2018MNRAS.479.1332M, doi:10.1093/mnras/sty1295.
Cousins, A. W. J. (1984), “Standardization of Broadband Photometry of Equatorial Standards”, South African Astronomical Observatory Circulars, 8: 59, Bibcode:1984SAAOC...8...59C
Kornilov, V. G.; Volkov, I. M.; Zakharov, A. I.; Kozyreva, V. S.; Kornilova, L. N.; Krutyakov, A. N.; Krylov, A. V.; Kusakin, A. V.; Leont'Ev, S. E.; Mironov, A. V.; Moshkalev, V. G.; Pogrosheva, T. M.; Sementsov, V. N.; Khaliullin, Kh. F. (1991). “Catalogue of WBVR-magnitudes of bright stars of the northern sky”. Trudy Gosudarstvennogo Astronomicheskogo Instituta. 63: 1. Bibcode:1991TrSht..63....1K.
Pigott, Edward (1785). “Observations of a New Variable Star. In a Letter from Edward Pigott, Esq. to Sir H. C. Englefield, Bart. F. R. S. and A. S.”. Philosophical Transactions of the Royal Society of London. 75: 127–136. Bibcode:1785RSPT...75..127P. doi:10.1098/rstl.1785.0007. S2CID186212958.
Cousins, A. W. J. (1964), “Photometric Data for Stars in the Equatorial Zone (Seventh List)”, Monthly Notes of the Astronomical Society of Southern Africa, 23: 175, Bibcode:1964MNSSA..23..175C.
Hirshfeld, A.; và đồng nghiệp (tháng 8 năm 1992), “Book-Review - Sky Catalogue 2000.0 - V.1 - Stars to Magnitude 8.0 ED.2”, Journal of the Royal Astronomical Society of Canada, 86 (4): 221, Bibcode:1992JRASC..86..221L
Anders, F.; Khalatyan, A.; Chiappini, C.; Queiroz, A. B.; Santiago, B. X.; Jordi, C.; Girardi, L.; Brown, A. G. A.; Matijevic, G.; Monari, G.; Cantat-Gaudin, T.; Weiler, M.; Khan, S.; Miglio, A.; Carrillo, I.; Romero-Gómez, M.; Minchev, I.; de Jong, R. S.; Antoja, T.; Ramos, P.; Steinmetz, M.; Enke, H. (1 tháng 8 năm 2019), “Photo-astrometric distances, extinctions, and astrophysical parameters for Gaia DR2 stars brighter than G = 18”, Astronomy and Astrophysics, 628: A94, arXiv:1904.11302, Bibcode:2019A&A...628A..94A, doi:10.1051/0004-6361/201935765, ISSN0004-6361, S2CID131780028.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thiên Ưng (chòm sao).
Ian Ridpath and Wil Tirion (2007). Stars and Planets Guide, Collins, London. ISBN 978-0007251209. Princeton University Press, Princeton. ISBN 978-0691135564.