Thái cực quyền

Võ thuật cổ truyền của Trung Quốc From Wikipedia, the free encyclopedia

Thái cực quyền

Thái cực quyền (chữ Hán phồn thể: 太極拳; chữ Hán giản thể: 太极拳; bính âm: Taijiquan; Tiếng Anh: Tai Chi), là một môn võ thuật cổ truyền của Trung Quốc với đặc trưng là các động tác trường quyền uyển chuyển, chậm rãi kết hợp với điều hoà hơi thở.

Chiêu thức Đơn tiên trong Quyền lộ Trần gia Thái cực quyền

Nguồn gốc

Về nguồn gốc Thái cực quyền, người ta có những luận điểm suy đoán khác nhau. Theo nhiều tài liệu, Thái cực quyền được ra đời cách đây hơn 300 năm do sự sáng tạo của một người họ Trần ở Trần Gia Câu, huyện Ôn, tỉnh Hà Nam, tên là Trần Vương Đình. Tại Việt Nam, cùng với sự phổ biến của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trong đó có nhắc tới việc Trương Tam Phong là người đầu tiên nghĩ ra Thái cực quyền, nhiều người tin rằng ông tổ của môn võ này chính là Trương Tam Phong. Tuy nhiên, với sự phổ biến của cuốn Thái cực quyền phổ do Vương Tông Nhạc đời Càn Long viết ra, và ảnh hưởng của cuốn sách này đến các hệ phái Thái cực quyền về sau, các học giả ngày càng nghiêng về khả năng Vương Tông Nhạc mới là người khai sáng Thái cực quyền[cần dẫn nguồn].

Các dòng phái chính

Ngũ đại danh gia

Theo tài liệu Thái cực quyền thường thức vấn đáp của tác giả Trương Văn Nguyên thì Thái cực quyền có 7 trường phái sau:

  1. Thái cực quyền Trần Gia Lão giá bắt đầu từ Trần Trường Hưng ở Trần Gia Câu, Hà Nam.
  2. Thái cực quyền Trần gia Tân giá bắt đầu từ Trần Hữu Bản cũng ở Trần Gia Câu, Hà Nam.
  3. Thái cực quyền Trần Gia Tiểu giá bắt đầu từ Trần Thanh Bình ở làng Triệu Bảo (gần Trần Gia Câu), còn gọi là Triệu Bảo giá Thái cực quyền.
  4. Thái cực quyền Dương gia bắt đầu từ Dương Lộ Thiền truyền cho hai con trai là Dương Ban Hầu và Dương Kiện Hầu, Dương Kiện Hầu lại truyền cho con là Dương Trừng Phủ. Hệ phái Dương gia Thái cực quyền hiện có bài giản hóa 24 thức thường dùng cho các lớp dưỡng sinh.
  5. Thái cực quyền Vũ gia bắt đầu từ Vũ Vũ Tương người huyện Vĩnh Niên, phủ Quảng Bình, tỉnh Trực Lệ, đến Ôn Châu Hà Nam, theo học với Trần Thanh Bình.
  6. Thái cực quyền Ngô gia bắt đầu từ cha con của Ngô Toàn Hựu và Ngô Giám Tuyền học từ Dương Lộ Thiền.
  7. Thái cực quyền Tôn gia bắt đầu từ Tôn Lộc Đường (người Bắc Kinh) học từ Hác Vi Chân.

Tuy vậy, trong Thái cực quyền toàn tập[1], liệt kê 5 nhà lớn nhất:

  1. Trần thức Thái cực quyền tổng hợp cả ba giá (Lão giá, Tân giá và Tiểu giá),
  2. Dương thức Thái cực quyền,
  3. Ngô thức Thái cực quyền,
  4. Võ thức Thái cực quyền
  5. Tôn thức Thái cực quyền.

Các chi phái Dương, Ngô, Võ và Tôn chỉ dạy một bài quyền và sau đó môn Thôi thủ (Tuishou). Riêng chi phái Trần có dạy thêm một bài thứ nhì bài Pháo trùy quyền, bổ túc cho bài thứ nhất.

Các hệ phái khác

Bên cạnh 5 nhà nói trên, tại Trung Hoa (và cả Việt Nam) hiện còn lưu truyền nhiều hệ phái Thái cực quyền khác nhau, trong đó có nhiều hệ phái xuất xứ từ Thái cực quyền của dòng họ Trần, bao gồm[2]:

  1. Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan) (1810-1890), đệ tử của Trần Thanh Bình.
  2. Lý gia Thái cực quyền (Lijia Taiji Quan) lập bởi Lý Thụy Đông (Li Ruidong), đệ tử đời thứ hai của Dương Lộ Thiền. Vào cuối thế kỷ thứ 19, môn này còn được gọi là Ngũ Tinh Thái Cực quyền (Wuxing Taiji quan) hay Ngũ Tinh Trùy (Wuxing Chui).
  3. Lý gia Thái cực quyền (Lijia Taiji Quan) truyền bởi Lý Anh Ngang (Li Yingang) thế kỷ 20
  4. Nhạc gia Thái cực quyền (Yuejia Taiji Quan) thành lập vào đầu thế kỷ thứ 20.
  5. Phó gia Thái cực quyền (Fujia Taiji Quan) lập bởi Phó Chấn Tung (Fu Zhensong) (1881-1953)
  6. Tam Hợp Nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi), đệ tử đời thứ tư của Trần Thanh Bình.
  7. Thiếu Lâm tổng hợp Thái cực quyền (Shaolin Zonghe Taiji Quan) từ Như Tỉnh (Ru Jing) vào thế kỷ thứ 19.
  8. Thường gia Thái cực quyền (Channgjia Taiji Quan) lập bởi Thường Đông Thăng (Chang Dongshing) (1909-1986).
  9. Triệu Bảo gia Thái cực quyền (Zhaobaojia Taiji Quan) lập bởi Trần Thanh Bình.
  10. Trịnh gia Thái cực quyền (Zhengjia Taiji Quan) lập bởi Trịnh Mãn Thanh (Zheng Manqing) (1901-1975)
  11. Trương gia Thái cực quyền (Zhangjia Taiji quan) truyền bởi Vạn Lai Thanh (Wan Laisheng) (1903-1992)
  12. Triệu gia Thái cực chưởng (Zhaojia Taiji Zhang) do Triệu Trúc Khê (Zhao Zhuxi) (1898-1991) sáng tác vào thập niên 1950. Chương trình của môn này bao gồm bài Dương gia Thái cực quyền giản hóa 24 thức; Đơn vãn thôi thủ (Danwantuishou); Thái cực chưởng (Taijizhang); Thái cực kiếm (Taijijian); Thái cực đao (Taijidao)[2]. Ngoại trừ bài Dương gia Thái cực quyền giản hóa 24 thức, kỹ thuật của bộ môn thuộc Thái cực Đường Lang quyền (Taiji Tanglang quan) không dính dáng đến các lưu phái Thái cực Trường quyền nói trên.
  13. Thái cực quyền-trường phái Trường sinh đạo (gọi tắt là Thái cực trường sinh đạo được cụ Song Tùng truyền từ gia tộc đến các học viên tại các lớp học của Câu lạc bộ UNESCO Thái cực trường sinh đạo. Theo ý kiến của cụ Song Tùng "đây là bài Thái cực quyền kết hợp với luyện thiền từ Trung Quốc và Yoga Ấn Độ truyền bá sang Việt Nam, được cha ông chúng ta "Việt hóa"".[3]. Bài bao gồm 108 động tác, đồ hình và thủ pháp khá giống bài Dương gia Thái cực giản hóa 24 thức tuy có khác ở điểm giữ thân trung chính không nhấp nhô đầu.

Thái cực quyền đồ biểu

Để biết chi tiết đầy đủ các nhân vật Thái Cực quyền, xin xem bảng phả hệ các nhân vật Thái Cực quyền ở dưới, đồ biểu này chỉ có tính khái quát các xu hướng phân lưu cho đến nay.

Huyền sử

Những nhân vật trong huyền sử của Thái cực quyền có thể kể đến Trương Tam PhongVương Tông Nhạc:

Trương Tam Phong
khoảng thế kỷ 12
Nội Gia
 
 
 
 
 
Vương Tông Nhạc
1733-1795
Thái cực quyền kinh

Thái cực quyền 5 nhà

Sự phân tách Ngũ đại lưu phái Thái cực quyền khởi nguồn từ Trần Vương Đình, có thể biểu kiến bằng sơ đồ sau:

Trần Vương Đình
1600–1680
Dòng họ Trần đời thứ 9
Trần Thức
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trần Trường Hưng
1771–1853
Dòng họ Trần đời thứ 14
Trần gia Lão giá
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trần Hữu Bản
khoảng năm 1800
Dòng họ Trần đời thứ 14
Trần gia Tân giá
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Dương Lộ Thiền
1799–1872
Dương Thức
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trần Thanh Bình
1795–1868
Trần gia Tiểu giá, Triệu Bảo giá
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Dương Ban Hầu
1837–1892
Dương gia Tiểu giá
 
Dương Kiện Hầu
1839–1917
 
 
 
 
 
Võ Vũ Tương
1812–1880
Vũ/Võ/Lý/Hác Thức
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngô Toàn Hữu
1834–1902
 
Dương Thiếu Hầu
1862–1930
Dương gia Tiểu giá
 
Dương Trừng Phủ
1883–1936
Dương gia Đại giá
 
Lý Diệc Dư
1832–1892
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngô Giám Tuyền
1870–1942
Ngô Thức
108 thức
 
 
 
 
 
Dương Thủ Trung
1910–1985
 
Hác Vi Chân
1849–1920
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngô Công Nghi
1900–1970
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tôn Lộc Đường
1861–1932
Tôn Thức
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngô Đại Quỹ
1923–1972
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tôn Tinh Nhất
1891–1929

Bài hiện đại

Một số bài Thái cực quyền hiện đại, được giản hóa chiêu thức trên cơ sở sắp xếp lại đồ hình, lọc lược bớt các chiêu thức trùng lắp:

Dương Trừng Phủ
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Trịnh Mãn Thanh
1901–1975
37 thức Thái cực quyền
 
Trung Hoa Quốc gia Thể Ủy
1956
Bắc Kinh 24 thức Thái cực quyền
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1989
42 thức hay Toàn thức
Tổng hợp kỹ thuật các dòng Trần, Dương, Tôn, Ngô
giảng dạy trong môn Wushu

Theo xu hướng tinh giản hóa các chiêu thức trùng lắp, hiện Dương thức Thái cực quyền cũng đã có một số bài còn gọn hơn, như bài Dương gia Thái cực quyền 10 thức[4] và bài Dương gia Thái cực quyền 16 thức (cùng năm 1999)[5], Vũ gia Thái cực quyền 46 thức (1996)[6] v.v.

Đặc điểm

Tư tưởng

Tên gọi Thái cực quyền xuất phát từ tư tưởng Thái cực trong Chu dịch và học thuyết Âm Dương: Vô cực sinh Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng (hai chân, hai tay), Tứ tượng sinh Bát quái (tám tiết đoạn của tay chân gập duỗi được), Bát quái biến 64 quẻ... "Thái" ở đây nghĩa là to lớn, "cực" nghĩa là điểm bắt đầu. Thái Cực Đồ nói rằng: "Vô cực mà thái cực". Dùng lối thở bụng của Đạo gia, Thái cực quyền khiến người tập hô hấp thâm trường không bị rối loạn, sức mạnh gia tăng, hình thành một công phu đặc thù trong võ học. Các động tác của bài quyền uyển chuyển và mềm mại, trong nhu có cương, dung hợp với học thuyết kinh mạch âm dương. Thái cực quyền đã trở thành một phương pháp tập luyện trong ngoài tương ứng, hình thức và tâm ý kết hợp[7].

Tính nhân văn

Nét chính yếu của Thái cực quyền là mô phỏng các hiện tượng tự nhiên. Nhiều chiêu thức trong bài hình ít nhiều mang đặc tính lãng mạn và nhân văn, ví dụ như: vân thủ (nghĩa là chiêu thức xoay tay như mây trắng xoay cuộn giữa trời xanh), bạch hạc lượng xí (con chim hạc vui múa), ngọc nữ xuyên thoa (thiếu nữ may áo), chuyển thân bài liên (lá sen lay động trước gió), như phong tự bế (như gió thổi làm cửa đóng), hải để châm (kim châm đáy bể) v.v. Thái cực quyền cũng là bộ môn ứng dụng nội công, rất thâm thúy và sâu sắc, với những tâm pháp mà các môn sinh phải thuộc nằm lòng để thi triển và ứng dụng hữu hiệu. Tuy chỉ có một bài quyền với các chiêu thức đơn giản nhưng người tập phải trải qua một tiến trình tập rất dài mới thấu hiểu lý pháp.

Nguyên tắc tập luyện

Các nguyên tắc, yếu lĩnh tập luyện khai triển Thái cực quyền mỗi dòng phái có sự dị biệt ít nhiều, tuy nhiên thường có một vài nguyên tắc khá liên quan, thống nhất. Dưới đây là một số nguyên tắc của dòng Dương thức Thái cực quyền:

-Tư thế:

  • Hư linh đỉnh kình: đầu cổ ngay thẳng, thần quán ở đỉnh
  • Hàm hung bạt bối: ngực lõm, lưng phẳng
  • Trầm kiên trụy chẩu: vai lỏng, chỏ buông

-Thần thế:

  • Khí trầm đan điền: ý thức đặt tại đan điền (cách rốn 3 đốt ngón tay về phía dưới) tự nhiên không gò bó

-Vận động:

  • Tùng yêu: chân tay theo sự vận động của eo, lấy eo làm chỗ dựa
  • Phân hư thực: hư, thực rõ ràng
  • Dụng ý bất dụng lực: lấy ý điều khiển động tác
  • Thượng hạ tương tùy: trên dưới theo nhau
  • Nội ngoại tương hợp: trong ngoài hợp nhau, tâm ý khí lực là một
  • Tương liên bất đoạn: động tác liên tiếp không dừng, thao thao bất tuyệt, liên miên như kéo tơ
  • Động trung cầu tịnh: Trong động tìm cái tĩnh. Lấy tĩnh chế động.
  • Khúc trung cầu trực: Trong cái gập, tìm cái thẳng.

Bài hình

Từ giai đoạn đầu với 7 bài quyền và các công phu bổ trợ, nhiều bài kiếm, thương, đao do Trần Vương Đình đưa vào dòng họ, cho tới các đời sau đã hợp nhất lại thành 2 bài quyền là "Đệ nhất lộ" và "Pháo chùy quyền". Các lưu phái Thái cực quyền khác thuộc ngũ đại danh gia Thái cực (Trần, Dương, Ngô, Võ, Tôn), ngoại trừ Trần gia, về sau chỉ còn truyền lại 1 bài quyền. Từ thời điểm 1956, khi Dương gia Thái cực đã có bài 24 thức giản hóa, các dòng Trần gia, Võ gia..., bên cạnh bài gốc cũng đã đi theo xu hướng tinh giản các chiêu thức trùng lặp hoặc phức tạp, vốn không thuận tiện cho người già cả hay thể lực suy nhược, để hình thành thêm các bài rút gọn.

Các bài Thái cực kiếm, Thái cực côn, Thái cực phiến (quạt) v.v phần lớn do các võ phái đời sau nghiên cứu, xiển dương và sáng chế bổ túc cho võ phái của mình.

Chiêu thức trong bài Thái cực thường được chiết chiêu tập luyện song đối với kỹ pháp thôi thủ (đẩy tay), nhằm luyện cảm ứng lực để phản ứng với sự tấn công đối thủ trong thực chiến. Thôi thủ thường bao gồm Định bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp tĩnh tại) và Hoạt bộ thôi thủ (thôi thủ với bộ pháp linh hoạt).

Bảng phả hệ nhân vật Thái Cực quyền

Tên Latin hóa của các nhân vật từ tiếng Trung Quốc nay đã phổ biến trên khắp thế giới và là từ khóa (key words) để tra cứu phim video clip trên www.youtube.com và tài liệu văn bản trên www.google.com, nếu gõ chữ Hán trên www.youtube.com sẽ không tìm ra được phim video clip, chữ Hán và tên Latin đều chỉ có thể sử dụng tra cứu văn bản trên www.google.com mà thôi.

  • Zhang Sanfeng 張三豐 (phồn thể 張三丰;giản thể: 张三丰) Zhāng Sānfēng - Cháng Sán-féng: Trương Tam Phong còn gọi là Zhang Junbao 張君寶 - Trương Quân Bảo, tương truyền là người sáng tạo Thái Cực quyền trên núi Võ Đang (Wutang 武當), thuyết này không có cơ sở lịch sử rõ ràng vì Trương Tam Phong có sáng tác ra một loại quyền pháp gọi là Nội gia quyền (Neijia ch’uan 內家拳) rất giống Thái Cực quyền.

1. Trần thức Thái Cực quyền (Chen family style Tai Chi ch’uan)

  • Chen Pu (陈仆): Trần Bốc, tương truyền là người ở Sơn Tây (Shanxi 山西) vào thế kỷ thứ 17 (1600) (?) đi đến Thường Dương Thôn (Chang Yang Cun 常阳村) sau này là làng Trần Gia Câu (Chen Jia Gou 陈家沟) ở Hà Nam (Henan 河南) sáng lập Trần Gia Thái Cực quyền, thuyết này không có cơ sở lịch sử (thiếu tư liệu lịch sử). Tương truyền là tổ họ Trần tại Trần Gia Câu.
  • Chen Wangting 陈王廷 (1600-1680 / 1557-1664): Trần Vương Đình, danh tướng nhà Minh, tương truyền là tổ phụ Thái Cực quyền, tương truyền thuộc đời thứ 9 họ Trần tại làng Trần Gia Câu.
Nhánh Trần Sở Nhạc
    • Thủy tổ của nhánh Tân giá và Tiểu giá sau này:
  • Chen Suoyue 陳所嶽: Trần Sở Nhạc, có tài liệu ghi là Chen Suole 陈所乐 Trần Sở Lạc, truyền nhân đời thứ 10 Trần thức Thái Cực quyền, thuộc Tiểu giá (Xiao jia)
  • Chen Zhengru /陈正如: Trần Chánh Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Xun Ru 陈恂如: Trần Tuân Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Shenru 陈申如: Trần Thân Như, học trò Trần Sở Nhạc, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Guangyin 陈光印: Trần Quang Ấn, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
    • Môn đồ của Trần Tuân Như:
  • Chen Jie 陈节: Trần Tiết, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen JiXia 陈继夏: Trần Kế Hạ, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen JingBai / Chen JingBo 陈敬伯 (1796-1821): Trần Kính Bá, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Shan Zhi 陈山枝: Trần Sơn Chi, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Jingjie 陈敬介: Trần Kính Giới, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Jingxia 陈景霞: Trần Cảnh Hà, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
    • Môn đồ của Trần Kính Bá:
  • Chen DaXing 陈大兴: Trần Đại Hưng, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Yaozhao 陈耀兆: Trần Diệu Triệu, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Gongzhao 陈公兆: Trần Công Triệu, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền, là thầy của Trần Hữu Bản và Trần Hữu Hằng. Sau này Trần Hữu Bản và Trần Hữu Hằng khai sinh ra dòng Tân giá (Xin jia)
Nhánh Trần Nhữ Tín
    • Thủy tổ của nhánh Lão giá và Đại giá sau này:
  • Chen Ru Xin 陈汝信: Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 10 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen DaKun 陈大鹍: Trần Đại Côn, học trò Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen DaPeng 陈大鹏: Trần Đại Bằng, học trò Trần Nhữ Tín, truyền nhân đời thứ 11 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen ShanTong 陈善通: Trần Thiện Thông, học trò Trần Đại Côn, truyền nhân đời thứ 12 Trần thức Thái Cực quyền
    • Môn đồ của Trần Thiện Thông:
  • Chen Bingwang 陈秉旺 (1748-?): Trần Bính Vượng, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền, là thầy của Trần Trường Hưng thuộc dòng Lão giá (Laojia)
  • Chen Bingren 陈秉壬: Trần Bính Nhâm, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
  • Chen Bingqi 陈秉奇: Trần Bính Cơ, truyền nhân đời thứ 13 Trần thức Thái Cực quyền
  • Wáng Zōng Yuè 王宗岳 - 王宗嶽 (1736-1795): Vương Tông Nhạc (Vương Tôn Nhạc), tương truyền học Thái Cực quyền từ Trương Tam Phong (?), thuyết này không có cơ sở lịch sử rõ ràng
Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.