From Wikipedia, the free encyclopedia
Mạt chược là một trò chơi có nguồn gốc từ Trung Hoa vào cuối thời nhà Thanh được lan rộng ra khắp thế giới từ đầu thế kỷ 20. Ở Trung Quốc có thể có đến 4 hay 6 người chơi cùng lúc (có biến thể 3 người chơi ở Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á). Trò chơi và các biến thể được chơi rộng rãi khắp Đông và Đông Nam Á và cũng trở nên phổ biến ở các nước phương Tây.
Mạt chược | |||||||||||||||||
Một bộ bài Mạt chược | |||||||||||||||||
Tên tiếng Trung | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Phồn thể | 麻將 | ||||||||||||||||
Giản thể | 麻将 | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tên tiếng Trung thay thế | |||||||||||||||||
Phồn thể | 麻雀 | ||||||||||||||||
Giản thể | 麻雀 | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tên tiếng Việt | |||||||||||||||||
Tiếng Việt | mạt chược | ||||||||||||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||||||||||||
Hangul | 마작 | ||||||||||||||||
Hanja | 麻雀 | ||||||||||||||||
| |||||||||||||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||||||||||||
Kanji | 麻雀 | ||||||||||||||||
Kana | マージャン | ||||||||||||||||
|
Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Bài này không có nguồn tham khảo nào. |
Mạt chược là một từ gốc tiếng Quảng Đông: ma4 jeuk2 (麻雀 - Ma tước) nghĩa là con chim sẻ vừng, còn phiên âm theo tiếng Phổ Thông (麻將 - Ma tướng hay Ma thương) là Májiàng, vì thế trong tiếng Anh là Mahjong. Trong bài mạt chược thì ký hiệu con chim sẻ là con bài thứ nhất của bộ bài, tức là con Nhất Sách.
Có giả thuyết cho rằng, mạt chược do một nhà quý tộc ở Thượng Hải sáng tác khoảng những năm 1850, có người nói rằng khoảng từ 1870-1875, và khởi đầu nó là những con bài làm bằng giấy. Không hiểu từ khi nào nó trở thành những con bài bằng chất liệu cứng như hiện nay.
Dù là một môn giải trí nhưng nó đòi hỏi người chơi phải có trình độ, hơn nữa việc chế tác những con bài đòi hỏi nhiều công phu và dĩ nhiên tốn kém, ngay cả trước 1975 ở miền Nam Việt Nam, chỉ những dân trí thức hoặc giàu mới chơi mạt chược, còn giới bình dân thì ít ai biết đến, cũng chỉ vì nó khó học, khó chơi và rất đắt tiền khi sắm bài, sắm bàn.
Những bộ mạt chược ngày xưa thường được làm bằng gỗ hoặc xương, riêng bài của những đại phú gia, các vương tôn công tử hoặc giới quý tộc, hoàng thân quốc thích thì nghe nói được làm bằng ngà voi. Ngày nay, hầu hết bài mạt chược được làm từ nhựa PVE hoặc PVC. Những bộ bài thường thì các quân bài được dập và sơn bằng máy, bài đặc biệt được khắc bằng tay. Trước năm 1975, trong Chợ Lớn nhiều người dùng máy khắc thẻ bài để khắc bài mạt chược vì thế những quân bài có đường nét rất thanh và đẹp. Nhưng dù làm bằng chất liệu gì, bài mạt chược vẫn phải đạt được một số yếu tố như vuông vức, đều đặn, không tì vết, phải bền chắc và tạo ra âm thanh vui tai khi va chạm với nhau.
Bên cạnh đó, việc chơi mạt chược còn được gọi là "xoa mạt chược". Sở dĩ nó được gọi như vậy, vì khi chuẩn bị chia bài, người chơi sẽ xoa bộ bài trên mặt bàn để trộn bài, thay vì xào bài liên tục trong hai bàn tay như tú lơ khơ, tam cúc, tứ sắc, tổ tôm....
Trước khi nói về các quân bài mạt chược, chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về chiếc bàn kê mạt chược, một công cụ không thể thiếu trong trò chơi này. Bàn để chơi mạt chược của người Hoa khá đơn giản, nó có mặt hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 80 cm và cao chừng 60 – 85 cm; khi chơi người ta thường trải một tấm khăn để các quân bài không bị trầy xước.
Bàn mạt chược của người Việt lại là một công cụ đặc dụng cao chừng 90 cm, cũng có mặt hình vuông với mỗi cạnh dài khoảng 90 – 95 cm và có gờ bao xung quanh, gờ cao từ 3 – 4 cm được bọc da hoặc nỉ. Mặt bàn cũng được lót bằng một loại chất liệu nylon hoặc mica cứng, trơn láng và có màu tối; thường là màu xanh lam hoặc xanh lục để tăng độ tương phản, giúp những quân bài (thường có màu sáng) trở nên nổi bật hơn.
Mục đích của việc phủ mặt bàn bằng chất liệu trơn láng và cứng để khi xoa bài, những quân bài không rớt ra ngoài và dễ dàng chạy trên mặt bàn hơn. Qua một thời gian sử dụng, mặt bàn sẽ khó tránh khỏi việc bị nhiễm bẩn, độ trơn láng cũng theo đó mà giảm đi ít nhiều. Lúc này, người ta sẽ dùng một lớp phấn bôi lên mặt bàn, giúp cho việc xoa bài trở nên dễ dàng hơn.
Bài mạt chược tuy do người Hoa sáng tạo, nhưng qua thời gian, cách chơi trò này của người Việt và người Hoa có nhiều khác biệt, và vì thế, bộ bài cũng khác biệt theo. Người Hoa dùng bộ bài có 144 quân, nghĩa là chỉ có 2 bộ hoa và không có khung. Trước năm 1975, người Việt đã chơi bài có 4 bộ hoa và 2 bộ khung, tổng số quân bài lên tới 160 quân. Còn bây giờ bài thông dụng có tới 4 bộ khung, thậm chí có khi lên đến 4,5 bộ, đồng nghĩa sẽ có thêm bốn con Nhị Khẩu. Ở đây chúng ta chỉ nói về bộ bài cơ bản, có 1 bộ khung và 160 quân, được chia ra như sau:
Bài Nạc gồm ba loại là:
Đông; Nam; Tây; Bắc
Trung; Phát; Bạch
Bộ Khung: Đây là những quân bài đại diện, thay thế cho những quân bài khác, gồm hai loại khung:
(Những bộ bài có từ 2 bộ khung trở lên còn có thêm từ 1 tới 4 khung đặc biệt gọi là nhị khẩu, là quân bài có viết 2 chữ nhỏ hỉ và nguyên, nó thay thế cho nguyên và hỷ)
Cũng cần chính danh cho các tên gọi, như đã nói ở trên, Mạt chược tuy do người Tàu sáng tạo, nhưng đã bị Việt hoá, thậm chí ngay cả tên chính của quân bài cũng bị Việt hóa, điển hình là quân Văn, chữ (đọc theo âm Hán Việt là đồng, nghĩa là kim loại đồng, còn đọc theo phiên âm Quảng Đông là Thùng) quân bài biểu thị bằng những vòng tròn nhỏ tượng trưng cho các đồng xu (cent) hoặc đồng trinh (1/10 cent) vì thế nó không liên quan gì đến chữ Văn cả. Có thể các cụ ngày xưa chơi Tổ tôm quen nên đã đồng hoá tên gọi theo các con bài tổ tôm cho dễ gọi, dễ nhớ chăng, bởi cách chơi Mạt chược cũng có nhiều điểm giống với Tổ Tôm như phu ngang, phu dọc...
Bộ Hoa: gồm 4 bộ hoa là: Mai Lan Cúc Trúc
(Đôi khi có 2 bộ Hoa khác là Cầm Kỳ Thi Họa và Ngư Tiều Canh Độc thay thế cho 2 bộ Vương & Hậu)
Để chơi Mạt chược phải có từ 4 đến 6 người. Nếu có sáu người thì 4 người chơi, 2 người ngồi ngoài dự bị nhận gió Trung và gió Phát, hết gió Đông, 2 người này vô và 2 người cửa Đông và cửa Tây ra, còn nếu 5 người thì người thứ 5 gió Trung sẽ thế người gió Đông khi hết vòng gió.
Bắt đầu chơi, một người gieo ba con xúc xắc để chọn chỗ (2 con 1 màu và một con khác màu). Người được cửa Đông sẽ gieo xúc xắc để bắt đầu, một con để chỉ tụ bài nằm cửa nào, tổng số sẽ chỉ bắt bài từ hàng thứ mấy đếm từ phải qua trái. Nếu chỉ có bốn người chơi thì lần đầu tiên gieo xúc xắc trúng cửa nào, người ở cửa đó sẽ là cửa Đông, còn từ 5 người thì ai được cửa Đông sẽ giữ cái, gọi là nhà cái, những người còn lại là nhà con.
Lấy bài hay bắt bài mỗi người 13 quân, cửa cái 14 quân và sẽ đánh ra 1 quân đầu tiên. Khi tới hay ù thì sẽ có 14 quân.
14 quân bài khi tới được chia ra là 4 phu, mỗi phu 3 quân và 1 cặp mắt. Có hai loại phu là phu ngang và phu dọc, dù ngang hay dọc tất cả các phu đều phải cùng một loại, một hàng. Ví dụ sách ăn theo sách, văn theo văn, vạn theo vạn, tài phao theo tài phao. Phu ngang là ba con giống nhau (gọi là khàn), nếu có hai con mà người khác đánh ra bất kỳ từ cửa nào cũng có quyền ăn, khi đó phải xướng lên "phỗng" hoặc "đôi", phu dọc là theo thứ tự, ví dụ 234, 345…và chỉ được ăn khi người trên đánh xuống, khi tới thì bất kỳ cửa nào đánh cũng được. Tất cả Tài Phao-Chữ đều là phu ngang (chỉ được phỗng không được ăn, ví dụ: chỉ có thể có 3 quân (khàn) Đông, không thể có phu Đông-Nam-Tây). Phỗng luôn luôn được ưu tiên hơn ăn, cho dù có dùng khung hay không. Ví dụ một nhà đánh cây Ngũ Vạn, người dưới cánh hạ Tam Vạn-Tứ Vạn để ăn, nhưng người đối diện có đôi Ngũ Vạn hay cây Ngũ Vạn và khung Màn, thì người có đôi (hay 1 cây+khung) được quyền ưu tiên phỗng cây bài. Nếu cả 2 người cùng gọi phỗng thì người phỗng bằng đôi được ưu tiên hơn người phỗng bằng khung. Nếu cả 2 người đều phỗng bằng khung thì khung nào chuyên đi với hàng của quân đánh ra được ưu tiên (ví dụ 1 người đánh cây Trung, 1 người định dùng khung Nguyên để phỗng, và 1 người nữa định dùng khung Tổng để phỗng thì người dùng khung Nguyên được ưu tiên). Nhưng nếu 1 người phỗng và 1 người ù, thì người ù được ưu tiên, bất luận dưới hình thức nào. Còn nếu cả 2 người cùng ù thì người trên cánh được ưu tiên (cũng bất luận dưới hình thức nào), gọi là Ù Tay Trên. Một khi người dưới cánh (ngồi bên tay mặt) hay người đối diện đánh đúng quân bài chúng ta ù mà thấy người trên cánh suy nghĩ thì tốt hơn hết đừng nhanh nhẩu hạ bài xuống ù vội mà hãy chờ cho người ấy đưa tay bốc hẵng hạ bài ù. Vì chúng ta chưa biết người ấy có ý định ăn hay phỗng, thậm chí là ù. Nếu chúng ta hạ bài xuống ù vội thì dù rằng người kia dù không (hay chưa) có ý định ù vẫn có thể hạ bài xuống ù tay trên chúng ta. Còn như người ấy đưa tay bốc thì sau đó có đổi ý muốn ù cũng không được, vì đã đưa tay bốc là có ý nhường quyền ưu tiên cho người khác ù rồi.
Nếu dùng khung để phỗng 1 quân nào đó và bốc thêm quân đó thì có thể "nẩy" khung ra, được tính phán của khung theo quy định (nhưng nếu dùng khung để ăn thì không được nẩy, ví dụ dùng khung Thùng để thay thế Nhị Văn+Tam Văn để ăn cây Tứ Văn thì sau đó có mó cây Tứ Văn cũng không được nảy khung Thùng ra). Trường hợp "nẩy" thì không ai có quyền ù Khung, nhưng có quyền ù quân Hối Coong nếu đương sự bốc thêm quân nữa và Hối Coong (cũng có nơi cho ù khung nẩy nhưng chỉ được kể theo quân bài bốc để nẩy chứ không được tính theo khung nẩy).
Cửa cái, sau khi bắt bài nếu có hoa hoặc khung thì dựng, trường hợp chỉ có 1 hoa có quyền đánh hoặc dựng, nhưng từ 2 hoa bắt buộc phải dựng. Hoa đúng cửa thì được tính phán và không được đánh khung nữa, còn nếu không có hoa cửa vẫn được quyền đánh khung (nhiều nơi không cho). Dựng xuống bao nhiêu hoa hoặc khung thì được bắt lại bấy nhiêu quân bài ở chồng ngược lại gọi là đầu coong. Nếu đủ 14 con bài mà tròn, nhà cái sẽ ù gọi là Thiên Ù.
Sau khi cả làng đã lấy hoa xong thì nhà cái sẽ đánh ra một con bài rác, người kế tiếp nếu ăn không được và không bị ai phỗng (lấy vào hay ăn bài) thì sẽ được bắt một con vào bài từ chồng bài thuận, và sau đó sẽ phải đánh đi một con.
Cứ đánh và bắt bài như vậy cho tới khi bài tròn, nghĩa là khi đủ 4 phu và 1 mắt thì được ù. Nếu bắt lấy mà ù thì gọi là ù cái và cả làng phải chung cái, còn nếu người khác đánh cho ù thì ai đánh phải chung cái, 2 người kia sẽ chung con. Thông thường chung cái sẽ gấp đôi chung con (không kể điểm thưởng), vì thế tránh chung cái cũng là một cách đánh để đỡ phải thua nhiều, và đây là một nghệ thuật cũng như chiến thuật căn bản của người chơi Mạt chược: Ăn lớn, chung nhỏ.
Những điều cần lưu ý và những trường hợp phải đền:
Ngoại lệ: nếu ai trên bài chỉ còn lại toàn những cây trong hàng của người có Cửu Chướng thì dù có đánh ù (Toàn Hàng) sau đó cũng không phải đền vì không còn đường nào lựa chọn, nhưng với điều kiện là không ăn/phỗng sau Cửu Chướng.
Mạt chược hấp dẫn người chơi hơn các môn bài bạc khác vì nó có tính toán, sắp đặt, bao gồm chiến thuật và chiến lược. Cũng là một ván bài đó, người chơi giỏi sẽ tạo nên ván bài lớn, nghĩa là tới nhiều điểm, ở đây gọi là phán. Mốc quan trọng khi chơi là làm sao để "tới mủn" (mủn cun: mãn quan) nghĩa là tới 6 phán và cứ mỗi bội số của 6 phán là thêm 1 mủn. Theo kinh nghiệm, người chơi tham từ 5 phán lên đến 6, nhưng không tham từ 6 lên đến 11, mà sẽ tham từ 11 lên đến 12. Có những trường hợp người chơi phải "bỏ bài". Bỏ bài đây có nghĩa là khi cảm thấy mình khó ù, ít phán hay chẳng có gì để tham trong khi có người bài lớn, nhất là người dưới cánh. Gặp trường hợp này người chơi không còn thiết gì đến chuyện ù nữa mà chỉ lo "đánh lành", cố gắng không để cho người bài lớn ăn/phỗng, hay nói nôm na là không tạo cơ hội cho người bài lớn chạy bài/ù, mà tìm cách đánh cho người ít phán hơn ù. Và theo kinh nghiệm chơi, trong trường hợp gặp người đỏ ù liên miên thì nên cố gắng mà đánh cho người khác ù, cho dù là bài lớn, nhiều phán hơn người đang đỏ (gọi là Triệt Người Đỏ).
Mỗi ván bài khi tới (ù) sẽ có một tên gọi tùy theo kết cục của 4 phu, và cũng từ đó người ta sẽ tính điểm cho ván bài tới (ù).
Xin lưu ý: Không Hoa đương nhiên là Không Khung, nhưng Không Khung vẫn có thể có Hoa.
Cả hai ván bài này nếu không có khung đều được tính thêm 1 mủn nữa, riêng lai hàng thì không được tính là không khung, nghĩa là phần lai hàng dù có khung hay không có khung cũng vậy.
"Tán Tiêu": Con bài bốc được là một con duy nhất để hình thành phu mắt.
Lưu ý: nước bài "xuyên" này là "bốc được con bài chờ duy nhất" vì thế khi có khung nó thường không được tính, tuy nhiên nếu có khung mà nước bài đang chờ cũng vẫn chỉ là 1 nước bài duy nhất thì vẫn được tính, thi dụ ta có khung Tổng hoặc Hợp, nhưng bài trên tay ta đang có là một con 6, hai con 8 và một con 9 thì nước bài ta chờ chỉ là một con 7, vậy bốc được con 7 thì ta có thêm phán "xuyên".
Đặc biệt:
Cả Thiên và Nhân ù, nếu bốc từ đầu coong mà ù thì được cộng thêm 1 phán coong (bốc tụ bài Hoa mà ù thì gọi là Coong Xừng Phá [Quan Thành Hoa], được thêm 1 phán, và thưởng thêm tiền tùy quy định).
Trên đây chỉ là những ván bài căn bản để tính phán, cách tính điểm dựa theo phán như sau:
Phán thừa tính thêm 1-2 tùy quy định, (ví dụ 8 phán thì tính mủn + 2 phán)
Ngày trước ở Sài Gòn và bây giờ nhiều nơi vẫn còn chơi, tới mủn thưởng thêm 10 điểm nữa, như vậy tới mủn nhà cái chung 74, con chung 42. Vì ăn thua như vậy hơi lớn nên thường nhiều nơi bỏ điểm thưởng tới mủn, tuy nhiên vẫn giữ điểm thưởng tới coong là thêm 5 điểm. Cũng có nhiều nơi chơi thưởng cho mỗi gió không có người ù mủn (tùy quy định), ví dụ đến gió Bắc mà chưa có người ù mủn thì sau đó ai ù mủn sẽ được thưởng số điểm quy định nhân với 4. Cũng có nơi chơi nếu ai ù 6 ván liên tiếp thì gọi là Lục Khôi, ván bài ù thứ 6 trở đi được cộng thêm mủn cun, và cứ thế tiếp tục.
Ngoài ra cần phải lưu ý, để ván bài lớn phải biết cách dựng khung cũng như tính toán, cố gắng để ván bài khi tới đủ 6 phán không cần hơn vì mỗi phán thêm chỉ được tính thêm 2 điểm, 5 phán cũng chỉ thêm được 10 điểm, không đáng gì, đôi khi dựng khung sẽ làm bài trở nên khó tới.
Quy luật về dựng khung như sau:
Như vậy, trước khi hạ bài xuống ù phải tính xem bài mình được bao nhiêu phán trước khi xướng, vì khi đã xướng rồi, nếu tính thiếu sẽ không được tính thêm nữa, rất thiệt thòi, còn tính dư sẽ bị làng tính lại. (Vì bây giờ đa số đều chơi bài có nhiều bộ khung nên không giới thiệu 1 ván bài pair-pair, nghĩa là toàn bài khi tới là 7 đôi. Bài này cũng ăn 1 mủn. Nhiều nơi chỉ cho ù, nếu tự bốc, khác với luật của Hongkong. Ván bài này, nhiều nơi gọi là lục phé bôn, trong lúc pair-pair được xài cho việc khác, nếu khi chờ bằng 2 đôi (2 con mắt), mà tự bốc lấy mà ù, thì được thêm 1 phán).
Vài ván bài đặc biệt: 1. Xập xám díu: 13 quân bài khác nhau: 7 tài phao + 3 lần quân 1 + 3 lần quân 9, quân thứ 14 tạo thành một đôi. 13 phán. Không khung, thêm 1 mủn. 2. Yêu Cửu: Chỉ toàn quân 1 (yêu) va 9 (cửu), 3 mủn. Lai hàng 9 phán. Không khung thêm 1 mủn. 3. Toàn chữ: Gió và tài phao, 4 mủn. Không khung, thêm 1 mủn. (xin so sánh với, Đại Tứ Hỷ Toàn Chữ bên trên) 4. Phóng hoa: đánh ra 3 lần hoa, bài sạch khung là ù, 1 mủn. Hoa khi đánh ra có giá trị như Tổng. Ai đang chờ là đều tới được. Ăn mủn, đền mủn. Nhiều nơi cho tính Khung như Hoa, nghĩa là, phóng khung thế hoa được, miễn ba con là được. Nếu phóng 3 khung xanh thì không cần sạch tài phao cũng ù được. Nếu phóng 2 khung xanh (khung Hợp kể như khung xanh) và một khung đỏ (khung Nguyên hay khung Hỷ) thì phải cần sạch tài phao mới ù được. Khung đánh ra, thì có quyền bị ăn, bị phỗng.
Cao Hùng là một cách chơi khác của Mạt chược. Thay vì sử dụng các quân Mạt Chược thông thường thì thay vào đó lại sử dụng đến 2 bộ quân cờ tướng (64 quân) và thay vì dùng 14 quân thì trong Cao Hùng chỉ được sử dụng 8 quân với 2 phu và 1 cặp mắt nhưng cặp mắt phụ thuộc vào 1 Phu trong cây bài để quyết định kiểu ù.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.