Khoai môn
loài thực vật From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Khoai môn[4][5][6] (/ˈtɑːroʊ,
Remove ads
Remove ads
Tên thường gọi
Thuật ngữ khoai môn trong tiếng Anh taro được mượn từ tiếng Māori khi thuyền trưởng Cook lần đầu tiên quan sát các đồn điền Colocasia ở New Zealand vào năm 1769. Hình thái taro hay talo phổ biến trong các ngôn ngữ Polynesia:[7] taro trong tiếng Tahiti; talo bằng tiếng Samoa và Tonga; kalo trong tiếng Hawaii ; taʻo ở tiếng Marquesas. Tất cả hình thái này đều bắt nguồn từ *talo trong ngữ hệ nguyên thủy của Polynesia,[7] mà bản thân nó có nguồn gốc từ *talos trong ngữ hệ nguyên thủy châu Đại Dương (cf. dalo trong tiếng Fiji) và *tales trong ngữ hệ nguyên thủy của Nam Đảo (cf. tales trong tiếng Java).[8] Tuy nhiên, sự bất thường trong tương ứng âm thanh giữa các dạng cùng nguồn gốc trong tiếng Nam Đảo gợi ý rằng thuật ngữ này có thể được mượn và lan truyền từ một ngôn ngữ Nam Á, có lẽ ở Borneo (cf. ngữ hệ nguyên thủy Môn Khmer * t 2 rawʔ, Khasi shriew, Khmu sroʔ, nguyên thủy tiếng Việt *s-roːʔ ).[9]
Trong ngôn ngữ Odia (được sử dụng rộng rãi ở vùng Odisha[10] của Ấn Độ), chúng được gọi là sāru (ସାରୁ).[10]
Ở Síp, khoai môn đã được sử dụng từ thời đế quốc La Mã. Ngày nay chúng được gọi là kolokasi (Kολοκάσι). Chúng thường được chiên hoặc nấu với ngô, thịt lợn hoặc thịt gà trong nước sốt cà chua trong nồi đất. "Baby" kolokasi được gọi là "poulles": sau khi chiên khô, thêm rượu vang đỏ và hạt rau mùi vào, sau đó dùng kèm với chanh tươi vắt. Gần đây, một số nhà hàng đã bắt đầu phục vụ những lát kolokasi chiên giòn mỏng, gọi chúng là "kolokasi lát mỏng".
Những cái tên khác bao gồm amadumbe hoặc madumbi trong tiếng Zulu,[20] boina trong tiếng Wolaita của Ethiopia, hoặc amateke ở Kirundi và Kinyarwanda.[21] Ở Tanzania, chúng được gọi là magimbi trong tiếng Swahili. Ở Madagascar, chúng được gọi là saonjo. Chúng còn được gọi là eddo ở Liberia.
Ở Caribe và Tây Ấn, khoai môn được gọi là dasheen ở Trinidad và Tobago, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines[22] và Jamaica.[23]:23 Lá cây được người Indo-Trinidad và Tobago gọi là aruiya ke bhaji.[24]
Trong tiếng Bồ Đào Nha, chúng được gọi đơn giản là taro, cũng như inhame, inhame-coco, taioba, taiova, taioba-de-são-tomé hoặc matabala;[25][26] trong tiếng Tây Ban Nha, chúng được gọi là malanga.[27][28]
Từ ngữ Hy Lạp cổ κολοκάσιον (kolokasion, nghĩa đen 'rễ sen') là nguồn gốc của từ ngữ kolokasi trong tiếng Hy Lạp hiện đại (κολοκάσι), từ ngữ kolokas bằng cả tiếng Hy Lạp và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và qulqas (قلقاس) bằng tiếng Ả Rập. Nó được tiếng Latin mượn thành colocasia, do đó trở thành danh pháp chi Colocasia.[29][30]
Khoai môn là một trong những loài được trồng rộng rãi nhất trong nhóm thực vật lâu năm nhiệt đới, thường được gọi thông tục là "tai voi", khi được trồng làm cây cảnh.[31] Các loài thực vật khác có cùng biệt danh bao gồm một số loài ráy có liên hệ sở hữu lá lớn hình trái tim, thường nằm trong các chi như Alocasia, Caladium, Monstera, Philodendron, Syngonium, Thaumatophyllum và Xanthosoma.
Ở Philippines, toàn bộ cây thường được gọi là gabi, trong khi thân cây được gọi là taro. Khoai môn là hương vị trà sữa rất phổ biến trong nước và cũng là nguyên liệu quen thuộc trong một số món ăn mặn của Philippines như sinigang.
Remove ads
Mô tả
Khoai môn là thực vật nhiệt đới lâu năm, chủ yếu được trồng làm rau ăn củ để lấy thân củ có nhiều tinh bột, ăn được. Cây có thân rễ với nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Lá dài đến 40 cm × 25 cm (15,7 in × 9,8 in) và mọc ra từ thân rễ. Chúng có màu xanh đậm ở trên và màu xanh nhạt ở dưới. Chúng có hình ovan gần nhọn, hơi tròn và có hình mút nhọn ở đỉnh, với đầu của các thùy đáy tròn hoặc hơi tròn. Cuống lá cao 0,8–1,2 m (2,6–3,9 ft). Ống lá có thể dài đến 25 cm (10 in). Bông mo dài khoảng 3/5 đoạn mo, với phần đóa hoa có đường kính dài đến 8 mm (0,31 in). Cụm hoa cái nằm ở bầu nhụy màu mỡ xen lẫn với bầu khác màu trắng vô sinh. Hoa vô tính phát triển phía trên hoa cái và có thùy hình thoi hoặc không đều, có 6 hoặc 8 tế bào. Phần phụ ngắn hơn cụm hoa đực.
- Hoa
- Lá
- Củ dạng thân hành
- Củ (lát cắt ngang)
Loài tương tự
Khoai môn có họ hàng với Xanthosoma và Caladium, những loại cây thường được trồng làm cảnh. Giống như chúng, đôi khi được gọi một cách mơ hồ là tai voi. Các giống khoai môn tương tự gồm có khoai môn khổng lồ (Alocasia macrorrhizos), khoai môn đầm lầy (Cyrtosperma merkusii) và tai voi có lá mũi tên (Xanthosoma sagittifolium).
Remove ads
Phân loại
Carl Linnaeus ban đầu mô tả hai loài, Colocasia esculenta và Colocasia antiquorum, nhưng nhiều nhà thực vật học sau này xem cả hai đều là thành viên của một loài duy nhất, rất đa dạng, danh pháp chính xác là Colocasia esculenta.[32]
Từ nguyên
Tính ngữ khoa học, esculenta, có nghĩa là "ăn được" trong tiếng Latin.
Phân bố và sinh cảnh
Khoai môn được cho là có nguồn gốc từ Nam Ấn Độ và Đông Nam Á nhưng được du nhập rộng rãi.[33][34] Khoai được cho là có nguồn gốc từ vương quốc Indomalaya, có lẽ ở Đông Ấn Độ, Nepal và Bangladesh. Khoai lan truyền bằng con đường trồng trọt theo hướng đông vào Đông Nam Á, Đông Á và hải đảo Thái Bình Dương; theo phía tây đến Ai Cập và miền đông lưu vực Địa Trung Hải; rồi từ đó hướng về phía nam và phía tây vào Đông Phi và Tây Phi, nơi mà khoai lan truyền đến vùng Caribe và châu Mỹ.
Khoai môn có lẽ có nguồn gốc đầu tiên ở vùng đất ngập nước thấp của Malaysia, nơi chúng được gọi là taloes .
Ở Úc, C. esculenta var. aquatilis được cho là có nguồn gốc ở vùng Kimberley thuộc Tây Úc; giống esculenta phổ biến hiện đã được du nhập và được xem là một loại cỏ dại xâm lấn ở Tây Úc, Lãnh thổ Bắc Úc, Queensland và New South Wales.
Ở châu Âu, C. esculenta được trồng tại Síp và được gọi là Colocasi (Κολοκάσι trong tiếng Hy Lạp) và được chứng nhận là sản phẩm PDO. Khoai cũng sinh sống trên đảo Ikaria của Hy Lạp và được xem là nguồn thực phẩm quan trọng cho hòn đảo trong Thế chiến thứ hai.[35]
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, C. esculenta có tên địa phương là gölevez và được trồng chủ yếu ven bờ biển Địa Trung Hải, chẳng hạn như huyện Alanya của tỉnh Antalya và huyện Anamur của tỉnh Mersin.
Ở Macaronesia, loại cây này đã được du nhập, có lẽ là kết quả của những khám phá của người Bồ Đào Nha và thường được dùng trong chế độ ăn của người Macaronesia như một nguồn carbohydrat quan trọng.
Ở miền đông nam Hoa Kỳ, loài cây này được công nhận là loài xâm lấn.[36][37][38][39][40] Nhiều quần thể thường tìm được mọc gần các mương thoát nước và bayou ở Houston, Texas.
Remove ads
Trồng trọt
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads