Hoàng hậu Kōjun
hoàng hậu nhật bản From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
hoàng hậu nhật bản From Wikipedia, the free encyclopedia
Hoàng hậu Kōjun (香淳皇后 (Hương Thuần Hoàng hậu)/ こうじゅんこうごう Kōjun-kōgō , 6 tháng 3 năm 1903 – 16 tháng 6 năm 2000) là Hoàng hậu thứ 124 trong lịch sử Nhật Bản, chính thất của Chiêu Hòa Thiên hoàng, tại vị Hoàng hậu từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989, thân mẫu của Thượng hoàng Akihito.
Hương Thuần Hoàng hậu | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng hậu Nhật Bản | |||||||||
Tại vị | 25 tháng 12 năm 1926 – 7 tháng 1 năm 1989 (62 năm, 13 ngày) | ||||||||
Tấn phong | 10 tháng 11 năm 1928 | ||||||||
Tiền nhiệm | Trinh Minh Hoàng hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Hoàng hậu Michiko | ||||||||
Hoàng thái hậu Nhật Bản | |||||||||
Tại vị | 7 tháng 1 năm 1989 – 16 tháng 6 năm 2000 (11 năm, 161 ngày) | ||||||||
Tiền nhiệm | Trinh Minh Hoàng thái hậu | ||||||||
Kế nhiệm | Thái thượng hoàng hậu Michiko | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | năm 1903 Tokyo, Nhật Bản | 6 tháng 3||||||||
Mất | 16 tháng 6 năm 2000 (97 tuổi) Cung điện Fukiage Ōmiya, Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản | ||||||||
An táng | 25 tháng 7 năm 2000 Nghĩa trang Hoàng gia Musashi, Hachiōji, Tokyo, Nhật Bản | ||||||||
Phối ngẫu | |||||||||
Hậu duệ | Shigeko Higashikuni Nội thân vương Sachiko Kazuko Takatsukasa Atsuko Ikeda Bình Thành Thiên hoàng Thân vương Masahito Takako Shimazu | ||||||||
| |||||||||
Hoàng tộc | Hoàng thất Nhật Bản | ||||||||
Thân phụ | Thân vương Kuni Kuniyoshi | ||||||||
Thân mẫu | Shimazu Chikako | ||||||||
Tôn giáo | Thần Đạo |
Thụy hiệu của bà là Hương Thuần (香淳) có nghĩa "Hương thơm thuần khiết". Bà giữ cương vị Hoàng hậu lên đến 62 năm và 13 ngày, cũng là Hoàng hậu tại vị lâu nhất trong lịch sử Nhật Bản.
Bà chào đời ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại tư dinh của Cửu Nhĩ Cung (久邇宮 Kuni-no-miya), Tokyo, một trong những chi họ của nhánh Ōke (旧宮家 Cựu Cung Gia) thuộc Hoàng thất Nhật Bản. Khuê danh của bà là Lương Tử Nữ vương (良子女王 Nagako Joō), con gái cả của Cửu Nhĩ Cung Bang Ngạn Vương (久邇宮邦彦王 Kuni-no-miya Kuniyoshi, 1873–1929) và vợ là Shimazu Chikako (島津千香子 Đảo Tân Thiên Hương Tử, 1879–1956). Cha bà xuất thân dòng dõi hoàng tộc, mẹ bà lại xuất thân từ tầng lớp Daimyō (大名 Đại Danh) là tầng lớp lãnh chúa phong kiến.[1]
Nagako theo học tại trường Gakushūin (学習院 Học Tập Viện), một ngôi trường được đặc biệt thành lập để giáo dục con gái của tầng lớp quý tộc và hoàng gia. Trong số các đồng môn của bà có Lý Phương Tử, Thái tử phi Ý Mẫn của Triều Tiên (lúc bấy giờ là Quận chúa Nashimoto Masako). Sau khi đính hôn ở tuổi mười bốn, Nagako rời khỏi trường và bắt đầu chương trình đào tạo kéo dài sáu năm nhằm học những kỹ năng thiết yếu của một Hoàng hậu.
Nagako được cha mẹ bà sắp đặt hứa hôn với anh họ xa của bà là Hoàng tử Hirohito (裕仁 Dụ Nhân, 1901–1989) khi còn rất trẻ, một chuyện thường tình trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Dòng dõi của bà và sự nghiệp quân sự không tì vết của cha bà phần lớn được cân nhắc. Vào tháng 1 năm 1919, lễ đính hôn của Nữ vương Nagako với Thái tử Hirohito (sau là Chiêu Hòa Thiên hoàng) được công bố. Việc Hirohito được tự ý chọn vợ cho mình khác hẳn với truyền thống trước đây. Nagako không có lựa chọn nào khác trong vấn đề này. Lúc 14 tuổi, bà và một số thiếu nữ đủ tư cách tham gia vào một buổi trà đạo tại Cung điện Hoàng gia trong khi Hoàng thái tử quan sát phía sau một bức bình phong. Và ông cuối cùng đã chọn Nagako.[2]
Nữ vương Nagako kết hôn với Thái tử Hirohito vào ngày 26 tháng 1 năm 1924 và trở thành Thái tử phi của Nhật Bản. Bà trở thành Hoàng hậu khi Hirohito kế thừa ngai vàng vào ngày 25 tháng 12 năm 1926. Không giống như những người tiền nhiệm, Hoàng đế Hirohito quyết định từ bỏ 39 thiếp thất của mình. Trong mười năm đầu cuộc hôn nhân, Hoàng hậu Nagako chỉ sinh được bốn con gái. Mãi đến ngày 23 tháng 12 năm 1933, gần mười năm sau ngày cưới, đôi vợ chồng mới có một con trai và cho Nhật Bản một người thừa kế khi sinh ra Akihito (明仁 Minh Nhân), hiện là Thượng hoàng Minh Nhân (上皇明仁), hoặc Minh Nhân Viện (明仁院).
Hoàng hậu Nagako thực hiện các bổn phận của mình theo lối truyền thống. Thời gian đầu bà đến sống tại Cung điện trong giai đoạn nhiều người cho rằng hình thức quân chủ cổ xưa của Nhật Bản đã phần lớn biến mất.[3] Vai trò của bà bắt buộc bà phải tham dự các buổi lễ đặc biệt như lễ kỷ niệm 2600 năm thành lập Đế quốc Nhật Bản vào năm 1940 hay cuộc xâm chiếm Singapore năm 1942.[4]
Nagako tháp tùng Hoàng đế Hirohito trong chuyến công du châu Âu năm 1971 và sau đó là chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hoa Kỳ năm 1975. Hai năm sau đó, bà bị ngã và bị chấn thương cột sống, một cú ngã nghiêm trọng khác vào năm 1980 khiến bà phải ngồi xe lăn trong suốt quãng thời gian còn lại.[5]
Sau khi Chiêu Hòa Thiên hoàng băng hà vào ngày 7 tháng 1 năm 1989, bà trở thành Hoàng thái hậu. Sức khỏe của bà khi đó đã suy yếu và không thể đến dự tang lễ của chồng và sống ẩn dật cho đến cuối đời. Năm 1995, bà trở thành vị Quốc mẫu sống lâu nhất lịch sử Nhật Bản, phá kỷ lục của Hoàng hậu Kanshi (藤原歓子 Đằng Nguyên Hoan Tử), người đã qua đời trước đó 868 năm.
Thái hậu Nagako qua đời ở tuổi 97 vào năm 2000. Trong những ngày cuối đời, Cung nội Sảnh (宫内庁 Kunai-cho) cho biết Hoàng thái hậu gặp vấn đề về hô hấp nhưng không nghiêm trọng. Nagako qua đời lúc 4:46 chiều ngày 16 tháng 6 năm 2000, các thành viên trong gia đình ở cạnh trong giờ phút cuối cùng.
Thiên hoàng Akihito truy phong bà làm Hương Thuần Hoàng hậu (香淳皇后, Kōjun-kōgō). Bà được an táng tại Musashino no Higashi no Misasagi gần mộ của chồng trong Lăng mộ Hoàng gia Musashi.
Bà có với Chiêu Hòa Thiên Hoàng hai người con trai và năm người con gái,
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.