nữ ca sĩ và diễn viên người Hồng Kông From Wikipedia, the free encyclopedia
Châu Huệ Mẫn (chữ Hán: 周慧敏; bính âm: Zhōu Huì Mǐn/ Vivian Chow) (sinh ngày 10 tháng 11 năm 1967) là ca sĩ và diễn viên được yêu mến ở Hồng Kông. Năm 1992 cô tham gia diễn xuất với vai Mai trong bộ phim truyền hình Đại Thời Đại của TVB. Trong suốt sự nghiệp của mình, cô nổi tiếng là một ngôi sao tốt bụng và khiêm tốn. Tính cách và thái độ của cô đối với người hâm mộ và đồng nghiệp trước sau không đổi. Cô rất yêu thích động vật, đã nuôi một vài con chó và mèo.
Châu Huệ Mẫn | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Châu Huệ Mẫn vào năm 2011 | |||||||||
Thông tin nghệ sĩ | |||||||||
Tên tiếng Hoa | 周慧敏 | ||||||||
Bính âm | zhou1 hui4 min3 (Tiếng Phổ thông) | ||||||||
Việt bính | zau1 wai3 man5 (Tiếng Quảng Châu) | ||||||||
Hán-Việt | Châu Huệ Mẫn | ||||||||
Sinh | 10 tháng 11, 1967 Hồng Kông thuộc Anh | ||||||||
Nguyên quán | Hồng Kông | ||||||||
Nghề nghiệp | Ca sĩ Diễn viên Viết nhạc Người dẫn chương trình | ||||||||
Năm hoạt động | 1988 - đến nay | ||||||||
Dòng nhạc | Cantopop Mandopop | ||||||||
Nhạc cụ | pianoforte | ||||||||
Hãng thu âm | PolyGram | ||||||||
Bạn tình | Nghê Chấn (2009 đến nay) | ||||||||
Quê | Trung Sơn Quảng Đông | ||||||||
|
Sau khi tham dự cuộc thi tìm kiếm ca sĩ vào năm 1985, Châu Huệ Mẫn đã trở thành DJ cho đài phát thanh và truyền hình Hồng Kông suốt hai năm.
Sau buổi hòa nhạc năm 1994, Châu Huệ Mẫn nhận ra rằng cuộc sống cá nhân mới là quan trọng chứ không phải sự nổi tiếng hay vinh quang. Chính vì vậy cô đã dần tách ra khỏi giới giải trí Hồng Kông và ngừng hẳn vào cuối thập niên 90 khi người yêu lâu năm của cô, Joe Ngai, di cư tới Vancouver, Canada. Tuy nhiên công chúng vẫn còn nhìn thấy cô trong những chuyến quay lại Hồng Kông dài ngày thăm mẹ. Gần đây Châu Huệ Mẫn đã quay về Hồng Kông sống và làm người phát ngôn cho một công ty mỹ phẩm là Phillip Wain International.
Cô đã kết hôn với Nghê Chấn-Joe Nieh năm 2009 và quyết định không sinh con để giữ nhan sắc theo thời gian dù trước đó bị mẹ chồng phản đối kịch liệt về điều này. Sang tuổi 50,cô vẫn được mệnh danh là một trong mỹ nhân không tuổi thế hệ 6x của Hồng Kông!
Châu Huệ Mẫn sinh tại Hồng Kông và được một mình mẹ nuôi lớn. Cùng trong năm Châu Huệ Mẫn ra đời, cha cô chết vì bệnh tim. Lớn lên chút nữa, Châu Huệ Mẫn học tại trường ngôi Thiên chúa giáo mang tên Thánh Stêphanô (St. Stephen's Church College), tốt nghiệp hạng (A-) (lớp 7). Cô mơ ước trở thành ca sĩ và họa sĩ. Sau này cả hai ước mơ đều hoàn tất (Châu Huệ Mẫn cách đây không lâu đã mở buổi triển lãm tranh của mình)
Sau Trung học, Châu Huệ Mẫn tham gia cuộc thi "Giọng hát mới-lần 4" (The Fourth Annual New Talent Singing Awards) năm 1985. Phải nói thêm về cuộc thi này, là nơi đã phát hiện nhiều tài năng trẻ sau này đều đạt thành công rực rỡ: Trương Học Hữu, Lương Hán Văn...
Trong đêm thi, Châu Huệ Mẫn hát bài: Tình tối cao (最愛), một bài hát của tác giả người Nhật: Kashiwabara Yoshie (柏原芳恵). Năm đó cùng thi đua với Châu Huệ Mẫn là: Tô Vĩnh Khang (蘇永康) và Lý Khắc Cần (李克勤). Châu Huệ Mẫn không thắng được cuộc thi, nhưng cô không nản lòng, vẫn nuôi mộng làm ca sĩ. Sau đó cô bước chân vào ngành giải trí với vai trò đầu tiên là làm "DJ" (Disc Jockey) cho đài phát thanh Radio Television Hong Kong năm 1987.
Làm DJ cho RTHK, Chu cũng từng hóa thân làm nhân vật chính cho 3 vở: "Love in the Summer" (夏之戀) (vai Đông Đông), "The Teenage Period" (青蔥歲月) (vai Fong Ka Yiu), và "Life in Paris" (在巴黎的日子) (vai Joyce).
Năm 1988, Chu xuầt hiện lần đầu trên màn ảnh trong bộ phim hài rất ăn khách "Heart to Hearts" (三人世界) (Tam nhân thế giới còn gọi là Thế giới 3 người). Chu đóng vai con cưng của Carol Cheng, một người mẹ lúc nào cũng bênh và bảo vệ con quá đà. Trong vở đó vai nam chính là Lâm Tử Tường. Với vai này, Chu đạt "Diễn viên trẻ triển vọng nhất" ('Best New Performer') cuối năm 1989.
Cùng trong năm đoạt giải 1989, Chu cũng phát hành album đầu tiên mang tên. Album tên "周慧敏" (Châu Huệ Mẫn). Thường thường những album đầu tiên ca sĩ thương lấy chính tên mình để gây ấn tượng cho thính giả. Album đầu chỉ có 4 bài, mục đích chính là chỉ muốn thử tìm hiểu thái độ dư lận trước ngôi sao mới này. Doanh thu bán không tệ, Châu Huệ Mẫn bắt đầu có được lượng fan ái mộ đông đảo riêng của mình sau 2 album tiếp theo: "VIVIAN" và "情迷" (Tình mê) năm 1990
Thừa thắng xông lên; hãng dĩa cho Châu Huệ Mẫn ra album ồ ạt. 5 albums mới năm 1991, 6 album khác trong năm 1992-1993. Châu Huệ Mẫn còn phải bị bắt đi học thêm tiếng phổ thông để có thể phát âm chuẩn xác hơn, để hãng phát hành có thể tung ra album tiếng Phổ thông "流言" (Lời hứa trôi đi).
Khán thính giả có ấn tượng với Châu Huệ Mẫn về một hình tượng tượng tinh khiết, thanh cao, trong sáng, dễ thương, hồn nhiên. Cho nên khán giả yêu mến đã ưu ái gọi cô bằng biệt danh "Bích ngọc". Thật ra khả năng diễn xuất và giọng ca của Chu không phải đạt đến độ chín mùi như các diễn viên, ca sĩ lão làng khác, cho nên co hay bị báo chí chê bai. Nhưng dù sao thì lượng fan hâm mộ vẫn tăng lên không ngừng. Nhất là giới học sinh thì cảm thấy cái hình tượng này rất là gần gũi. Họ vẫn ủng hộ cô cho đến ngày hôm nay, sau nhiều năm giã từ làng giải trí. Với sắc đẹp trời cho, vóc dáng tiêu chuẩn (Chu cao gần 1m70), gương mặt thanh tú, giọng ca trong trẻo, hình tượng diễn xuất có duyên. Giới hâm mộ, nhất là học sinh đã gọi cô ưu ái dưới cái tên khác ngoài "Bích ngọc" là "Ngọc nữ chưởng môn nhân" (玉女掌門人). xxxxnhỏ|Châu Huệ Mẫn hồi trẻ vào những thập niên 90 Hong Kong]]
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.