From Wikipedia, the free encyclopedia
Cá chết hàng loạt hay cá chết trắng là hiện tượng các con cá bị chết một cách bất thường hoặc hàng loạt trong các quần thể cá ở tự nhiên hay trong điều kiện nuôi nhốt, và tỷ lệ tử vong tổng quát lớn hơn đời sống thủy sinh. Nguyên nhân phổ biến nhất là sự suy giảm nồng độ oxy trong nước, có thể là do các yếu tố như hạn hán, tảo xâm lấn, nhiễm độc, thủy triều đỏ hoặc một sự gia tăng nhiệt độ trong nước. Các bệnh truyền nhiễm và ký sinh trùng cũng có thể dẫn đến cá chết hàng loạt. Độc tính cũng là một nguyên nhân thực sự nhưng ít phổ biến của hiện tượng cá chết. Cá chết thường ghi nhận bằng hiện tượng các con cá nổi hàng loạt lên mặt nước.
Cá chết thường là dấu hiệu đầu tiên của môi trường không ổn định và thường được điều tra như một vấn đề cấp bách của các cơ quan môi trường để xác định nguyên nhân gây ra để khắc phục. Nhiều loài cá có khả năng chịu đựng tương đối thấp của các biến thể trong điều kiện môi trường. Sự kiện ô nhiễm có thể ảnh hưởng các loài cá và các nhóm tuổi cá theo những cách khác nhau. Nồng độ oxy cạn kiệt là nguyên nhân phổ biến nhất của cá chết.
Cá chết có thể do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân được biết, cá chết thường xuyên nhất do ô nhiễm từ nước thải nông nghiệp hoặc độc tố. Tình trạng thiếu oxy sinh thái (thiếu oxy) là một trong những nguyên nhân tự nhiên phổ biến nhất của cá chết. Sự kiện thiếu oxy có thể được gây ra bởi các yếu tố như tảo nở hoa, hạn hán, nhiệt độ cao và ô nhiễm nhiệt. Cá chết cũng có thể xảy ra do sự hiện diện của bệnh, nước thải nông nghiệp và nước thải sinh hoạt, dầu hoặc sự cố tràn chất thải nguy hại, đánh bắt với các hóa chất, các vụ nổ dưới nước, hoặc đánh bắt bằng chất nổ hoặc xung điện từ đó tác động rất lớn đến quần thể thủy sinh. Cá chết thường là một dấu hiệu của sự căng thẳng môi trường.
Nhiệt độ ấm hơn có thể thúc đẩy quá trình phát triển các đám tảo dưới nước với tốc độ nhanh hơn, khiến chúng hấp thụ oxy nhiều hơn. Thời tiết nóng cũng sẽ khiến lượng oxy trong nước giảm thấp hơn so với điều kiện thời tiết bình thường. Đây có thể là nguyên nhân khiến cá thiếu oxy và chết.[1] Nồng độ oxy trong nước suy giảm làm cá chết. Trước khi cá chết thường có hiện tượng cá nổi đầu, chúng nhoi lên khỏi mặt nước để thở.
Nước thải nông nghiệp, nước thải, dòng chảy bề mặt, tràn hóa chất, sự cố tràn chất thải nguy hại đều có thể có thể dẫn đến ngộ độc nước và cá chết. Một số loài tảo còn tạo ra độc tố. Ở Florida, chúng bao gồm Aphanizomenon, Anabaena và Microcystis. Một số loài cá đáng chú ý đã bị giết chết ở Louisiana trong những năm 1950 đã do thuốc trừ sâu được gọi là Endrin. Cá chết gây ra bởi con người là không bình thường, nhưng đôi khi một chất gây độc tính đổ trực tiếp hoặc một sự thay đổi nhiệt độ nước hoặc độ pH có thể dẫn đến cá chết. Ví dụ, vào năm 1997 một nhà máy phosphat ở Mulberry, Florida, vô tình đổ 60 triệu gallon nước quá trình axit vào Sapling Creek, giảm độ pH từ khoảng 8 đến ít hơn 4 cùng 36 dặm của con lạch, dẫn đến cái chết của khoảng 1,3 triệu con cá.
Rất khó hoặc không thể xác định xem một chất độc tiềm năng là nguyên nhân trực tiếp của một cá chết trắng. Ví dụ, hàng trăm ngàn con cá chết sau khi một vụ tràn dầu do tai nạn của bourbon whiskey vào sông Kentucky gần Lawrenceburg. Tuy nhiên, các quan chức không thể xác định giết cá là do sự tác động trực tiếp hoặc thiếu oxy dẫn đến khi vi khuẩn thủy sản nhanh chóng bắt đầu tiêu thụ và tiêu hóa. Cyanide là một hợp chất độc hại cụ thể đã được sử dụng để câu trộm cá (đánh cá bằng hóa chất).
Một số loài cá triển lãm đồng thời tỷ lệ tử vong hàng loạt như một phần của chu kỳ cuộc sống tự nhiên của chúng. Cá giết do tử vong sinh sản có thể xảy ra khi cá kiệt sức từ các hoạt động sinh sản như tán tỉnh, xây tổ, và phát tán trứng hoặc tinh dịch (tinh trùng). Cá nói chung là yếu sau khi đẻ trứng và ít đàn hồi hơn bình thường để thay đổi nhỏ trong môi trường. Ví dụ như cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi Sockeye có nhiều con cá cái thường chết ngay lập tức sau khi đẻ trứng.
Vụ nổ dưới nước có thể dẫn đến chết cá, và cá bong bóng bơi dễ bị vỡ hơn. Đôi khi các vụ nổ dưới nước được sử dụng vào mục đích để tạo ra cá chết, một thực tế bất hợp pháp thường được gọi là đánh cá bằng thuốc nổ. Vụ nổ dưới nước có thể vô tình hoặc lên kế hoạch, chẳng hạn như xây dựng, thử nghiệm địa chấn, khai thác, thử nghiệm vụ nổ của các cấu trúc dưới nước. Ở nhiều nơi, việc đánh giá tác động tiềm năng của các vụ nổ dưới nước trên sinh vật biển phải được hoàn thành và biện pháp phòng ngừa được thực hiện trước khi nổ mìn.
Hạn hán có thể dẫn đến khối lượng nước thấp hơn để ngay cả khi nước có chứa một mức độ cao của oxy hòa tan, khối lượng giảm có thể không đủ cho số lượng cá. Hạn hán thường xảy ra cùng với nhiệt độ cao để các năng vận chuyển oxy của nước cũng có thể được giảm. Dòng chảy thấp cũng làm giảm độ pha loãng có sẵn cho phép thải nước thải được xử lý hoặc chất thải công nghiệp. Độ pha loãng giảm làm tăng nhu cầu oxy hữu cơ tiếp tục giảm nồng độ oxy có sẵn cho cá. Thời tiết nắng nóng kéo dài có những ngày nhiệt độ lên đến 40oC ngoài không khí, trên các ao nuôi nhiệt độ nước mặt đôi khi lên đến 36-380C, nhiệt độ này nằm ngoài giới hạn nhiệt độ của các loài cá nuôi truyền thống (22-280C). Do vậy cá nuôi trong ao sẽ yếu dần, ăn kém và nguy cơ mắc bệnh rất cao.[2][3]
Cùng với đó khi nhiệt độ môi trường không khí và môi trường nước lên cao oxy hòa tan vào nước sẽ thấp, mức độ tiêu thụ oxy của các loài thủy sinh vật trong ao tăng dẫn đến các hiện tượng thiếu oxy trong nước. Khi nhiệt độ lên cao quá trình chuyển hóa hóa học, phản ứng sinh hóa dẫn đến thiếu oxy trong tầng đáy cũng như trong ao. Thiếu oxy dẫn đến quá trình phân hủy thiếu khí tạo thành các khí độc: NH3, H2S, CH4...sẽ dẫn tới tình trạng cá bị sốc, ngộ độc, giảm sức đề kháng và bệnh sẽ phát triển. Nếu quá trình thiếu khi xảy ra trong thời gian dài, các động vật thủy sản nuôi sẽ bị chết ngạt do thiếu oxy.[2][3]
Cá có thể chết hàng loạt do bệnh tật và ký sinh. Sinh vật lạ xuất hiện dày đặc vào ban đêm quanh các lồng bè nuôi cá ở huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang). Chất nhờn do chúng tiết ra khiến hàng nghìn con cá chết, gây hại lớn cho ngư dân. Sinh vật này giống con giun, dài khoảng 10 cm xuất hiện dày đặc vào ban đêm, bám quanh các lồng bè nuôi cá vài ở các xã Lại Sơn, An Sơn, Nam Du và Hòn Tre. Chất nhờn do chúng tiết ra được cho là gây cản trở quá trình hô hấp vì thiếu oxy, làm mù mắt cá. Huyện Kiên Hải đã có hơn 6.000 con cá bớp nặng từ 4–7 kg mỗi con và khoảng 10.000 con cá mú loại dưới 1 kg bị chết.[4][5][6][7][8]
Thông thường khi cá chết, chúng sẽ nổi phềnh lên mặt nước. Cá nặng hơn không đáng kể so với môi trường nước xung quanh. Chúng gần như có lực nổi trung tính, nghĩa là sức nặng khiến nó chìm xuống cân bằng với lực bên trong cơ thể khiến con vật nổi lên. Khi một con cá chết, oxy vẫn còn ở trong bong bóng của nó. Ngoài ra, quá trình phân huỷ xác sinh ra thêm các loại khí khác mới. Con cá giống như một cái hộp kín, khi nó phân huỷ, khí sẽ lấp đầy cơ thể. Cái bụng trở thành một quả khinh khí cầu và con cá nổi lên mặt nước. Cá nặng hầu hết là do xương và cơ ở hai bên sống lưng, vì thế khi quả khí cầu ngoi lên, con cá có xu hướng đổ nghiêng sang một bên. Không phải lúc nào cá chết cũng nổi lên mặt nước ngay. Chúng có thể nằm ở dưới đáy cho đến khi khí tích đầy cơ thể[9].
Những sự kiện cá chết hàng loạt trên thế giới có:
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.