Xe tăng Iosif Stalin
Loạt xe tăng hạng nặng của Liên Xô / From Wikipedia, the free encyclopedia
Xe tăng Iosif Stalin (hay Xe tăng IS), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng được gọi là xe tăng JS hay ИС. Nó được đặt theo tên nhà lãnh đạo Liên Xô lúc đó là Iosif Vissarionovich Stalin (điều thú vị là Stalin trong tiếng Nga cũng có nghĩa là "Người đàn ông thép")
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Xe tăng Iosif Stalin | |
---|---|
Loại | Xe tăng hạng nặng |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1943–những năm 1970 |
Sử dụng bởi | Liên Xô Trung Quốc Ai Cập Cuba Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên |
Trận | Chiến tranh thế giới thứ hai, Hungary (1956), Chiến tranh Sáu ngày, Tiệp Khắc (1964) |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Zh. Kotin, N. Dukhov |
Năm thiết kế | 1943 (IS-2), 1944 (IS-3), 1944–45 (IS-4) |
Nhà sản xuất | Nhà máy Kirov, UZTM |
Giá thành | IS-2: 230.000 rúp (1945) IS-3: 267.200 rúp (1945)[1] |
Giai đoạn sản xuất | 1943–45 (IS-2), 1945–47 (IS-3), 1945–46 (IS-4) |
Số lượng chế tạo | 207 IS-1 3.854 IS-2 2.311 IS-3 250 IS-4 |
Thông số (IS-2 Model 1944[2]) | |
Khối lượng | 46 tấn |
Chiều dài | 9,90 m |
Chiều rộng | 3,09 m |
Chiều cao | 2,73 m |
Kíp chiến đấu | 4 |
Phương tiện bọc thép | IS-2: Mặt trước thân xe: 100mm nghiêng 60 độ Mặt trước tháp pháo: 100mm cong tròn Khiên chắn quanh nòng pháo: 155mm cong tròn Hông xe: 90 - 130mm (nghiêng 9-25 độ, hông trước dày hơn hông sau) Hông tháp pháo: 90mm nghiêng 20 độ Nóc xe: 30mm |
Vũ khí chính | D25-T 122 mm (28 viên) |
Vũ khí phụ | 2 súng máy hạng nhẹ Degtyarev 7.62mm (1.890 viên) đối với IS-2 model 1943 và 1 súng máy hạng nhẹ Degtyarev 7.62mm đối với IS-2 model 1944 1 súng máy DShK 12.7mm (250 viên) |
Động cơ | Động cơ diesel 12 xi lanh V-2 600 hp (450 kW) |
Công suất/trọng lượng | 13 hp/tấn |
Hệ thống treo | thanh xoắn |
Sức chứa nhiên liệu | 820 l |
Tầm hoạt động | 240 km |
Tốc độ | 37 km/h |
Xe tăng hạng nặng IS được thiết kế với mục đích hỗ trợ các mũi đột phá tiêu diệt các công sự phòng thủ vững chắc của Đức, hoặc hạ gục các loại xe tăng hạng nặng của Đức như Tiger I và Tiger ll. Xe có vỏ giáp rất dày theo tiêu chuẩn thời đó, lên tới 100mm thép nghiêng 60 độ ở phía trước xe (tương đương 200mm thép đặt thẳng đứng), có khả năng chống chịu được pháo 88 mm L/56 của xe tăng Tiger I kể cả ở cự ly gần. Hỏa lực của xe cũng rất mạnh với pháo nòng dài 122mm L/46, đủ khả năng tiêu diệt các xe tăng hạng nặng như Tiger I và Panther của Đức. Nhờ sự kết hợp "giáp dày - pháo lớn" này, IS-2 giành ưu thế áp đảo trước xe tăng Đức trong những trận đấu tăng trực diện, nó có thể tiêu diệt loại xe tăng hạng nặng Đức từ cự ly mà đối phương không thể bắn trả một cách hiệu quả. Sau khi nghiên cứu, tướng xe tăng Heinz Guderian của Đức đã kết luận rằng ngay cả xe tăng hạng nặng Tiger I cũng không phải là đối thủ của IS-2, và phải cần tới ít nhất 3 chiếc xe tăng Tiger I trở lên để có thể đánh bại duy nhất một chiếc IS-2. Để mô tả nỗi sợ hãi khi phải đối mặt với IS-2, lính Đức đã đặt cho IS-2 một biệt danh là "Dooms", nghĩa là "Quỷ dữ".
Cùng với khả năng đấu tăng đáng gờm, IS-2 cũng được dùng như loại xe tăng đột phá, bắn đạn có sức nổ cao để phá hủy các cứ điểm và boong-ke vững chắc. Xe cũng có khả năng việt dã tốt và sửa chữa nhanh, chi phí sản xuất thấp nên có thể sản xuất số lượng khá lớn. Chiếc IS-2 được đưa vào hoạt động tháng 2 năm 1944, và được Hồng quân sử dụng như mũi nhọn ở giai đoạn cuối cuộc chiến, bao gồm cả Trận Berlin.
Dựa trên thành công của IS-2, tháng 3/1945, Liên Xô đã chế tạo ra loại IS-3 có sức mạnh còn lớn hơn nữa. IS-3 vỏ giáp trước tháp pháo dày tới 300mm, cách bố trí giáp tân tiến hơn so với thiết kế IS-2 ban đầu. Không chỉ mạnh về hỏa lực mà còn mạnh về tính linh hoạt trên mặt trận, kèm theo khẩu pháo 122mm có khả năng gây sát thương chí mạng cho đối phương, IS-3 thực sự mang sức mạnh áp chế ngay từ đầu với hỏa lực mạnh cùng với lớp giáp gần như bất khả chiến bại, ngay cả Xe tăng King Tiger (Tiger II) (loại xe tăng mạnh nhất của Đức) cũng không sánh được với IS-3 về các thông số kỹ thuật.