Vật cưng
From Wikipedia, the free encyclopedia
Vật cưng hay thú kiểng, thú cảnh, thú cưng là những loài động vật được nuôi để làm cảnh để con người ôm ấp, nâng niu chăm sóc. Hai trong số những loài thú cưng phổ biến nhất là chó và mèo. Vai trò thú cưng trái ngược với động vật dùng để lao động (lấy sức kéo như trâu, bò, lừa, ngựa, chó kéo xe gọi là súc vật lao tác) trong thể thao (chó, bò, ngựa), trong phòng thí nghiệm (chuột bạch, thỏ nhà) hay những loài vật được nuôi để lấy thịt, trứng và sữa.
Thú cưng mang lại cho chủ nhân của chúng, hoặc người giám hộ,[1] cả lợi ích về thể chất lẫn tinh thần. Việc dạo chó có thể mang lại cho cả con người và chó sự tập luyện, không khí trong lành, và tương tác xã hội. Thú cưng có thể cung cấp sự đồng hành cho những người sống một mình hoặc người già không có đủ tương tác xã hội với người khác. Có một lớp thú trị liệu được chấp thuận y khoa được mang đến để thăm những người bị giam cầm, như trẻ em trong bệnh viện hoặc người già trong nhà dưỡng lão. Liệu pháp với thú cưng sử dụng động vật và người xử lý được đào tạo để đạt được các mục tiêu cụ thể về thể chất, xã hội, nhận thức, hoặc cảm xúc với bệnh nhân.
Mọi người thường nhận thú cưng để làm bạn đồng hành, bảo vệ nhà cửa hoặc tài sản, hoặc bởi vì sự đẹp hoặc hấp dẫn được nhìn thấy từ động vật.[2] Một nghiên cứu của Canada năm 1994 phát hiện rằng những lý do phổ biến nhất để không sở hữu thú cưng là thiếu khả năng chăm sóc thú cưng khi đi du lịch (34.6%), thiếu thời gian (28.6%), và thiếu nơi ở phù hợp (28.3%), với việc không thích thú cưng ít phổ biến hơn (19.6%).[2] Một số học giả, nhà đạo đức học, và tổ chức quyền động vật đã đưa ra những mối quan ngại về việc nuôi thú cưng do sự thiếu tự chủ và việc đối tượng hóa động vật phi nhân loại.[3]