Vương quốc Ấn-Hy Lạp
From Wikipedia, the free encyclopedia
Vương quốc Ấn-Hy, Vương quốc Ấn-Hy Lạp hay Vương quốc Graeco-Ấn Độ, còn được gọi trong lịch sử là Vương quốc Yavana (Yavanarajya),[1] là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm nhiều vùng khác nhau của Afghanistan, Pakistan và tây bắc Ấn Độ ngày nay.[2][3][4][5][6][7] Vương quốc này đã tồn tại từ c. 200 TCN tới c. 10 sau Công Nguyên.
Vương quốc Ấn-Hy
|
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
180 TCN–10 SCN | |||||||||
Các chiến dịch của người Ấn-Hy Lạp
Lãnh thổ vương quốc Ấn-Hy Phạm vi có thể của cuộc viễn chinh • Thủ phủ | |||||||||
Thủ đô | Alexandria ở Caucasus Sirkap/Taxila Sagala/Sialkot Pushkalavati/Peucela | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Hy Lạp (bảng chữ cái Hy Lạp) Pali (Chữ Kharoshthi) Sanskrit, Prakrit (Chữ Brahmi) Có thể cả tiếng Aramaic | ||||||||
Tôn giáo chính | Đạo Phật Tôn giáo Hy Lạp cổ đại Đạo Hindu Đạo Kỳ Na Đạo Zoroast Đạo Mani | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân chủ | ||||||||
Vua | |||||||||
• 180-160 TCN | Apollodotus I | ||||||||
• 25 TCN - 10 CN | Strato II | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Cổ đại | ||||||||
• Thành lập | 180 TCN | ||||||||
• Giải thể | 10 SCN | ||||||||
| |||||||||
Những cuộc xâm chiếm của người Hy Lạp đã đưa những người Hy Lạp cổ đại tới Nam Á còn được gọi là Ấn-Hy. Họ thành lập Vương quốc Ấn-Hy[8] bao gồm các vùng khác nhau của Tây Bắc và phía Bắc tiểu lục địa Ấn Độ trong suốt hai thế kỷ cuối cùng TCN, và được cai trị bởi hơn 30 vị vua Hy Lạp,[9] thường xung đột với nhau khác. Vương quốc này được thành lập khi Demetrios vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria xâm chiếm Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, trong bối cảnh này ranh giới của "Ấn Độ" là Hindu Kush. Những người Hy Lạp tại Ấn Độ cuối cùng đã bị chia cắt khỏi vương quốc Hy Lạp-Bactria mà trung tâm nằm ở Bactria (nay là biên giới giữa Afghanistan và Uzbekistan).
Khái niệm "Vương quốc Ấn-Hy" lỏng lẻo mô tả một số triều đại có thể chế chính trị khác nhau. Đã có nhiều thành phố, như Taxila,[10] nay thuộc Punjab của Pakistan, hoặc Pushkalavati và Sagala [11]. Những thành phố này sẽ là đô thành một số triều đại trong thời trị vì của họ.
Trong suốt hai thế kỷ cầm quyền của mình, các vị vua Ấn-Hy kết hợp ngôn ngữ Hy Lạp với các ngôi ngữ của Ấn Độ cùng với các ký hiệu, như được thấy trên đồng tiền của họ, và pha trộn tôn giáo Hy Lạp cổ đại, Ấn giáo và Phật giáo, như đã thấy trong các di chỉ khảo cổ còn lại của các thành phố của họ và trong các bia đá ghi lại sự ủng hộ của họ đối với Phật giáo, cho thấy một sự hợp nhất phong phú của những ảnh hưởng Ấn Độ và Hy Lạp.[12] Ảnh hưởng của văn hóa Ấn-Hy Lạp vẫn còn cảm thấy ngày nay, đặc biệt là thông qua ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo.[13]
Vương quốc Ấn-Hy cuối cùng biến mất như một thực thể chính trị vào 10 SCN sau cuộc xâm lược của vương quốc Ấn-Scythia, mặc dù một số người dân Hy Lạp có lẽ vẫn còn tồn tại cho tới nhiều thế kỷ sau dưới sự cai trị tiếp theo của vương quốc Ấn-Parthia và vương triều Quý Sương.[14]