![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/47/PLoS_oral_cancer.png/640px-PLoS_oral_cancer.png&w=640&q=50)
Ung thư đầu và cổ
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ung thư đầu và cổ là một nhóm ung thư bắt nguồn từ miệng, mũi, họng, thanh quản, các xoang hoặc tuyến nước bọt.[1] Triệu chứng bao gồm sưng hoặc loét không lành, loét họng không hết, nuốt khó hoặc thay đổi giọng nói.[1] Ngoài ra cũng có thể xuất huyết bất thường, sưng mặt hoặc khó thở.[1]
Ung thư đầu và cổ | |
---|---|
![]() | |
Ung thư lưỡi với mảng lichen hóa xung quanh | |
Khoa/Ngành | Ung thư |
Yếu tố nguy cơ | Rượu, thuốc lá, trầu không, papillomavirus người, phóng xạ, phơi nhiễm nơi làm việc, Epstein-Barr virus[1][2] |
Dịch tễ | 5.5 triệu (năm 2015)[3] |
Khoảng 75% ung thư đầu và cổ có nguyên nhân do rượu hoặc thuốc lá.[1][2] Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm ăn trầu, các loại papillomavirus ở người, phơi nhiễm phóng xạ, phơi nhiễm ở nơi làm việc và virus Epstein-Barr.[1] Loại ung thư đầu cổ phổ biến nhất là ung thư biểu mô tế bào vảy.[2] Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết.[1] Mức độ lan rộng được chẩn đoán bằng chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm máu.[1]
Không sử dụng thuốc lá và rượu có thể làm giảm nguy cơ ung thư đầu và cổ.[2] Việc tầm soát toàn bộ dân số có vẻ không hiệu quả nhưng khám họng có thể có giá trị ở nhóm đối tượng nguy cơ cao.[2] Ung thư đầu và cổ có thể chữa được nếu chẩn đoán sớm nhưng tiên lượng xấu nếu chẩn đoán muộn.[2] Điều trị phối hợp phẫu thuật, xạ trị, hóa trị và điều trị đích.[1] Những người điều trị ung thư đầu cổ có nguy cơ ung thư thứ hai cao hơn.[1]
Năm 2015, ung thư đầu và cổ đã ảnh hưởng đến hơn 5.5 triệu người trên toàn thể giới (miệng 2.4 triệu, họng1.7 triệu và thanh quản1.4 triệu),[3] và nó gây hơn 379,000 ca tử vong (miệng 146,000, họng 127,400, thanh quản 105,900).[4] Đây là loại ung thư phổ biến thứ bảy và gây tử vong nhiều thứ chín trong các loại ung thư.[2] Tại Hoa Kỳ, có khoảng 1% dân số mắc loại ung thư này, và nam gặp nhiều hơn nữ gấp hai lần.[1][5] Bệnh thường được chẩn đoán ở tuổi 55 đến 65.[5] Tỷ lệ sống 5 năm trung bình ở các nước phát triển khoảng 42-64%.[5][6]