Tình trạng khẩn cấp Mã Lai
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tình trạng khẩn cấp Malaya (tiếng Mã Lai: Darurat Malaya) là một chiến tranh du kích kéo dài từ 1948-1960 tại Malaya giữa các lực lượng Thịnh vượng chung và Quân Giải phóng Dân tộc Malaysia (MNLA), cánh quân sự của Đảng Cộng sản Malaysia.
Tình trạng khẩn cấp Malaya Darurat Malaya 馬來亞紧急状态 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của phi thuộc địa hóa châu Á và Chiến tranh lạnh | |||||||
Oanh tạc cơ Avro Lincoln của Úc ném bom xuống Quân Giải phóng dân tộc Malaysia tại khu vực rừng của Malaya (khoảng năm 1950) Lee Min, 1 du kích Mã Lai ở quận Ipoh, 1951 | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Lực lượng chống cộng:
Thái Lan (biên giới Thái Lan -Malaya) |
Lực lượng cộng sản:
Trung Quốc Liên Xô[1] | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Winston Churchill Harold Briggs Roy Urquhart Henry Gurney † Gerald Templer Tunku Abdul Rahman Henry Wells Sidney Holland |
Trần Bình Abdullah CD Rashid Maidin Shamsiah Fakeh S. A. Ganapathy † Lưu Nghiêu † Dương Quả | ||||||
Lực lượng | |||||||
250.000 quân nhân hộ vệ Malaya
37.000 cảnh sát đặc biệt 24.000 cảnh sát liên bang |
Đến 150.000 dân vận
| ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
1.346 quân nhân và cảnh sát Malaya bị giết 519 nhân viên quân sự Anh bị giết 2.406 quân nhân/cảnh sát Malaysia và Anh |
6.710 bị giết 1.289 bị thương 1.287 bị bắt 2.702 đầu hàng | ||||||
2.478 dân thường thiệt mạng 810 mất tích Tổng thương vong: 5,000+ Tổng số người chết: 11,000+ người |
Tình trạng khẩn cấp Malaya là thuật ngữ mà chính phủ thực dân gọi xung đột, thuật ngữ của Quân Giải phóng Dân tộc Malaysia là Chiến tranh Giải phóng dân tộc kháng Anh.[2] Các ngành đồn điền cao su và khai thác thiếc thúc đẩy việc sử dụng thuật ngữ "tình trạng khẩn cấp" do những thiệt hại của họ sẽ không được hãng bảo hiểm Lloyd's bồi thường nếu sử dụng thuật ngữ "chiến tranh".[3]