Trịnh Tông
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đoan Nam Vương Trịnh Tông (chữ Hán: 鄭棕; 10 tháng 10 năm 1763 - 23 tháng 7 năm 1786), còn có tên khác là Trịnh Khải (鄭楷) là vị chúa Trịnh thứ 10 thời Lê Trung Hưng trong lịch sử Việt Nam, cầm quyền từ năm 1782 tới năm 1786, ở giai đoạn tan rã của tập đoàn phong kiến họ Trịnh.
Trịnh Khải 鄭楷 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Chúa Trịnh Đoan Nam Vương | |||||||||
Chân dung Trịnh Tông trong Trịnh gia chính phả | |||||||||
Trịnh Vương | |||||||||
Tại vị | 28 tháng 11 năm 1782 – 23 tháng 7 năm 1786 3 năm, 237 ngày | ||||||||
Thời kỳ | Lê Hiển Tông (1740 - 1786) | ||||||||
Tiền nhiệm | Trịnh Cán | ||||||||
Kế nhiệm | Trịnh Bồng | ||||||||
Thông tin chung | |||||||||
Sinh | 10 tháng 10 năm 1763 {{{nơi sinh}}} | ||||||||
Mất | 23 tháng 7 năm 1786 (22–23 tuổi) Đàng Ngoài, Đại Việt | ||||||||
| |||||||||
Tước hiệu | Đoan Nam Vương (端南王) | ||||||||
Hoàng tộc | Chúa Trịnh | ||||||||
Thân phụ | Trịnh Sâm | ||||||||
Thân mẫu | Dương Thị Ngọc Hoan |
Trịnh Tông là con trai trưởng của Thánh Tổ Thịnh vương Trịnh Sâm, mẹ là bà Dương Thị Ngọc Hoan. Từ lúc trẻ, ông đã không được cha mình thương yêu và bị Tuyên phi Đặng Thị Huệ tìm cớ hãm hại. Trong vụ án năm Canh Tý, Trịnh Tông bị truất ngôi làm con út, nhường lại chức thế tử cho Trịnh Cán là con của Tuyên phi. Tuy nhiên vào tháng 10 ÂL năm 1782, không lâu sau khi Trịnh Sâm mất, lính tam phủ cùng nhau nổi dậy tôn phò Trịnh Tông lên giữ ngôi chúa mà truất ngôi của Trịnh Cán.
Kiêu binh hai xứ Thanh, Nghệ do có công phò Trịnh vương nên rất đắc chí, lộng hành ngang ngược không kiêng kị gì cả khiến triều cương hỗn loạn, thế nước suy yếu. Năm 1786, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) lấy danh nghĩa phù Lê xuất quân bắc phạt; Trịnh Tông không chống lại được rồi bị bắt và tự tử; bắt đầu cho mấy năm biến động liên tiếp trên chính trường Bắc Hà cho tới mùa xuân năm 1789.