Thời kỳ Khai Sáng
Phong trào tri thức triết học chi phối tư tưởng châu Âu vào thế kỷ 17 và 18 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Phong trào Khai sáng, cũng gọi bằng Phong trào Duy lí, (tiếng Pháp: le Siècle des Lumières; tiếng Anh: the Enlightenment)[chú thích 1] là phong trào tri thức triết học chi phối tư tưởng châu Âu vào thế kỷ 17 và 18,[2] lấy lý trí, sự theo đuổi hạnh phúc, và tri giác làm nền móng, chủ trương tự do, tiến bộ loài người, khoan dung, bác ái, chính phủ lập hiến, phân lập nhà nước với tôn giáo...[3][4]
Phong trào Khai sáng thoát thai từ Phong trào nhân văn thời Phục hưng, sau cuộc Cách mạng Khoa học, nối tiếp sự nghiệp của Francis Bacon và những người khác. Thời điểm Phong trào Khai sáng xuất hiện, một số người cho là năm 1637, khi nhà triết học René Descartes đưa ra triết lí Cogito, ergo sum ("tôi tư duy, nên tôi tồn tại"), người khác cho là năm 1687, khi nhà toán học Isaac Newton xuất bản quyển Principia, kết thúc Cách mạng Khoa học.[cần dẫn nguồn] Giới sử học Pháp xưa nay lấy khoảng thời gian giữa lúc Vua Louis XIV chết năm 1715 và lúc Cách mạng Pháp bùng nổ năm 1789 làm thời đại Khai sáng. Hầu hết cho rằng phong trào thoái trào vào đầu thế kỷ 19.
Giới triết học và khoa học bấy giờ phổ biến ý tưởng ở các học viện, chi nhánh hội Tam điểm, phòng họp văn nghệ sĩ, quán cà phê và trong sách vở, tạp chí. Phong trào Khai sáng làm suy yếu các chế độ vua chúa chuyên quyền và Giáo hội Công giáo, mở đường cách mạng chính trị vào thế kỷ 18 và 19. Nhiều phong trào vào thế kỷ 19 như tự do và cổ điển mới lấy Phong trào Khai sáng làm nền móng.[5]
Thời kỳ Khai sáng thường được liên hệ chặt chẽ với cuộc Cách mạng Khoa học, do cả hai phong trào đều nhấn mạnh vào lý tính, khoa học hay sự hợp lý, trong khi phong trào Khai sáng còn tìm cách phát triển hiểu biết có hệ thống về các quy luật tự nhiên và thần học. Phong trào bắt nguồn từ cuộc cách mạng tri thức khởi đầu bởi Galileo và Newton, trong một bầu không khí ngày càng kém thiện cảm với quyền lực áp chế, trong những khám phá về cá nhân, xã hội, và nhà nước, các nhà tư tưởng Khai sáng tin rằng có thể áp dụng tư duy có hệ thống cho mọi lĩnh vực của hoạt động con người và đưa nó vào hoạt động nhà nước. Những người đi đầu phong trào tin rằng họ sẽ dẫn thế giới vào một thời đại mới của nhân tính, lý tính và tự do từ một thời kỳ dài đầy nghi ngờ, phi lý, mê tín dị đoan, và độc tài mà họ gọi là Thời kỳ Đen Tối (Dark Ages). Phong trào Khai sáng đi kèm với thời kỳ cổ điển và baroque trong âm nhạc và thời kỳ tân cổ điển trong nghệ thuật; thời hiện đại chú ý đến phong trào Khai sáng như là một trong những mô hình trung tâm cho nhiều phong trào thời hiện đại. Phong trào đã góp phần tạo ra nền tảng tư tưởng cho Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp, Phong trào độc lập Mỹ La Tinh, và Hiến pháp Ba Lan ngày 3 tháng 5; góp phần dẫn tới sự trỗi dậy của chủ nghĩa tự do cổ điển, dân chủ, và chủ nghĩa tư bản.
Phong trào Khai sáng chỉ xảy ra tại Đức, Pháp, Anh, và Tây Ban Nha, nhưng tầm ảnh hưởng của nó lan xa hơn. Nhiều người trong số những người khai sinh ra Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã chịu ảnh hưởng lớn bởi các tư tưởng của thời kỳ Khai sáng, đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo (Thuyết thần giáo tự nhiên) và trong lĩnh vực chính trị với Hiến pháp Hoa Kỳ, Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ (Bill of rights), cùng với Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền của Pháp.