Triều Tiên Thế Tông
Quốc vương thứ tư nhà Triều Tiên / From Wikipedia, the free encyclopedia
Triều Tiên Thế Tông (Tiếng Hàn: 조선세종, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế Tông, nhà Minh ban Thụy hiệu Trang Hiến (莊憲), Triều Tiên dâng Thụy hiệu Trang Hiến Anh Văn Duệ Vũ Nhân Thánh Minh Hiếu Đại Vương (Hangul: 장헌영문예무인성명효대왕). Ông trị vì từ năm 1418 đến năm 1450, tổng cộng 32 năm.
Triều Tiên Thế Tông | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vua Triều Tiên | |||||||||||||
Quốc Vương Triều Tiên | |||||||||||||
Trị vì | 19 tháng 9 năm 1418 - 8 tháng 4 năm 1450[1] (31 năm, 201 ngày) | ||||||||||||
Nhiếp chính | Triều Tiên Thái Tông (1418–1422) | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Triều Tiên Thái Tông | ||||||||||||
Kế nhiệm | Triều Tiên Văn Tông | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | (1397-05-15)15 tháng 5, 1397 Hán Thành | ||||||||||||
Mất | 8 tháng 4, 1450(1450-04-08) (52 tuổi) Hán Thành | ||||||||||||
An táng | Anh Lăng (英陵) | ||||||||||||
Thê thiếp | Chiêu Hiến Vương hậu | ||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||
| |||||||||||||
Triều đại | Nhà Triều Tiên | ||||||||||||
Thân phụ | Triều Tiên Thái Tông | ||||||||||||
Thân mẫu | Nguyên Kính Vương hậu | ||||||||||||
Tôn giáo | Nho giáo Phật giáo |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 세종대왕 |
---|---|
Hanja | 世宗大王 |
Romaja quốc ngữ | Sejong Daewang |
McCune–Reischauer | Sejong Taewang |
Tên khai sinh | |
Hangul | 이도 |
Hanja | 李裪 |
Romaja quốc ngữ | I Do |
McCune–Reischauer | I To |
Tên lúc nhỏ | |
Hangul | 원정 |
Hanja | 元正 |
Romaja quốc ngữ | Won Jeong |
McCune–Reischauer | Wŏn Chŏng |
Trong 4 năm đầu, Thế Tông cùng cha là Thượng vương Thái Tông cai quản triều chính. Năm 1422, Thái Tông băng hà, Thái Tử Thế Tông chính thức trở thành vua của Triều Tiên. Thế Tông thực hiện nhiều chính sách nhằm khuyến khích khoa học - kỹ thuật, mở mang kinh tế, khuyến khích Nho học và bổ sung những điều khoản mới vào luật pháp. Ông còn cải cách văn tự, ban hành chữ cái tượng thanh Chosŏn'gŭl vào năm 1446, dùng để ký âm tiếng Triều Tiên - bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía những nho sĩ coi trọng truyền thống vốn luôn dùng chữ Hán của Trung Quốc.[2] Về đối ngoại, Thế Tông phía bắc tiến đánh Mãn Châu, di dân đến định cư ở vùng này, phía nam đánh đảo Tsushima - tiễu trừ cướp biển Nhật Bản. Ngày nay, Thế Tông được xem là vị minh quân đã đưa văn hóa Triều Tiên đến một thời kỳ rực rỡ.[3] Người dân Hàn Quốc quen gọi ông là Thế Tông Đại Vương (세종대왕, 世宗大王); mặc dù trên thực tế xưng danh Đại Vương đã có mặt trong Thụy hiệu của hầu hết các đời vua Triều Tiên trước năm 1897.