Trận Vòng cung Kursk
trận đánh ở Liên Xô trong Thế chiến 2 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận vòng cung Kursk (lịch sử Nga gọi là Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài từ ngày 5 tháng 7 đến 23 tháng 8 năm 1943 giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã tại vùng đồng bằng giữa các thành phố Kursk (tiếng Nga: Курск), Oryol (Орёл), Belgorod (Белгород) và Kharkov (Харьков) thuộc Liên Xô (cũ), nay thuộc miền trung tây nước Nga và đông Ukraina. Trong chiến dịch này, có trận đánh này nổi tiếng là trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày 10 tháng 7 tại Prokhorovka (Прохоровка) và lên đến đến đỉnh điểm là ngày 12 tháng 7 tại cánh đồng Prokhorovka (Прохоровка). Trong ba ngày, hai bên đã tung vào trận đánh những binh đoàn xe tăng hùng mạnh nhất với tổng số lên đến trên 1.200 xe tăng và pháo chống tăng tự hành.[20]
Trận vòng cung Kursk | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai | |||||||
Xe tăng Đức bị phá hủy trong trận Kursk | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Đức |
Liên Xô | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Erich von Manstein, Günther von Kluge, Hermann Hoth Werner Kempf Walther Model Josef Harpe Walter Weiss |
Georgy Zhukov Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky Konstantin Rokossovskiy, Nikolai Vatutin V. D. Sokolovsky M.M. Popov Ivan Konev | ||||||
Lực lượng | |||||||
950.000 quân [3] 9.467 pháo 2.928 xe tăng và pháo tự hành, về sau được chi viện thêm gần 1.000 chiếc (trong đó có 560 xe tăng và pháo tự hành hạng nặng, còn lại hầu hết là hạng trung),[4][5][6] 2.110 máy bay[7] |
1.880.000 quân,[8] 29.000 pháo và súng cối,[8] 4.938 xe tăng và pháo tự hành, về sau được chi viện thêm khoảng 2.500 chiếc (trong đó có khoảng 40% là xe hạng nhẹ, 55% là xe hạng trung và khoảng 225 xe hạng nặng)[8] 2.792[9]-3.549 máy bay [10]. | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
111.132 chết [11] 426.400 bị thương, bị bắt hoặc mất tích[11] 1200 xe tăng và pháo tự hành bị phá hủy (bao gồm khoảng 260 xe hạng nặng)[12] ~2.000 xe tăng và pháo tự hành bị hư hại nặng (bao gồm 270 xe hạng nặng)[13] 1.696 máy bay[14] |
254.469 chết 608.834 bị thương hoặc bị ốm (74% bị thương trong chiến đấu, 26% bị ốm)[15][16] 6.064 xe tăng và pháo tự hành bị phá hủy hoặc hư hại[17] (trong số đó, khoảng 3.100 xe bị hỏng đã được sửa chữa lại, 2.971 chiếc còn lại bị phá hủy hầu hết là xe hạng nhẹ và hạng trung)[18] 1.626 máy bay,[19] 5.244 pháo và súng cối[19] | ||||||
Chiến dịch Kursk gồm hai giai đoạn:
- Giai đoạn Đức Quốc xã tấn công từ ngày 4 tháng 7 đến ngày 19 tháng 7:
- Giai đoạn Liên Xô phản công từ ngày 20 tháng 7 đến ngày 23 tháng 8:
Với thắng lợi thuộc về phía quân đội Xô Viết, trận vòng cung Kursk trở thành một trong những chiến thắng bước ngoặt quan trọng của họ trong cuộc chiến này,[2][21] đánh dấu sự "xuống dốc" của quân đội Đức Quốc xã trên chiến trường Xô-Đức cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau trận tấn công cuối cùng của Hitler trên Mặt trận phía đông này, quân đội Đức Quốc xã đã mất hẳn quyền chủ động tấn công chiến lược và rơi vào thế phòng thủ bị động. Mặc dù vẫn còn những tiềm lực không nhỏ nhưng nhìn chung, quân đội Đức Quốc xã chịu tổn hại to lớn và sức chiến đấu của họ đã bước vào thời kỳ suy sụp và chỉ còn có thể phòng ngự kết hợp một số trận phản công không lớn và hầu hết đều không thành công cho đến khi đầu hàng toàn bộ vào tháng 5 năm 1945.[2][3] Chiến thắng này được xem là do lòng quả cảm của các chiến sĩ, và sự triển khai đúng đắn của Bộ Chỉ huy Liên Xô, cũng như sự phát triển của nghệ thuật quân sự Liên Xô khi ấy,[22] đã giáng cho quân Thiết giáp Đức một thảm bại lớn nhất của họ.[23] Không những là một thắng lợi quyết định này hoàn toàn đem lại quyền chủ động chiến lược cho Liên Xô, đại thắng ở trận Kursk cùng với những sự kiện cùng năm tại Ý và Bắc Phi đã chuyển đổi thế trận theo chiều hướng có lợi cho phe Đồng Minh, khiến cho sự toàn bại của Đế chế Đức cũng như sự giải phóng nhân loại ra khỏi ách áp bức của chủ nghĩa phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian.[1][23]