Titan (vệ tinh)
vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Titan (phát âm tiếng Anh: ˈtaɪtən TYE-tən, tiếng Hy Lạp: Τῑτάν) hoặc Saturn VI là vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, vệ tinh duy nhất có bầu khí quyển đặc[13] và là vật thể duy nhất trừ Trái Đất có bằng chứng rõ ràng về chất lỏng đã được khám phá.[14]
Màu sắc tự nhiên của Titan được quan sát từ tàu vũ trụ Cassini–Huygens. | |
Khám phá | |
---|---|
Khám phá bởi | Christiaan Huygens |
Ngày phát hiện | 25 tháng 3 năm 1655 |
Tên định danh | |
Tên định danh | Saturn VI |
Phiên âm | /ˈtaɪtən/ ⓘ[1] |
Đặt tên theo | Τῑτάν Tītan |
Tính từ | Titanian[2] or Titanean[3] (both /taɪˈteɪniən/)[4][5] |
Đặc trưng quỹ đạo[6] | |
Cận điểm quỹ đạo | 1186680 km |
Viễn điểm quỹ đạo | 1257060 km |
1.221.870 km | |
Độ lệch tâm | 0,0288 |
15,945 ngày | |
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 5,57 km/s (tính toán) |
Độ nghiêng quỹ đạo | 0,34854° (so với xích đạo Sao Thổ) |
Vệ tinh của | Sao Thổ |
Đặc trưng vật lý | |
Bán kính trung bình | 2574,73±0,09 km (0,404 lần Trái Đất) [7] |
8,3×107 km2 (0,163 lần Trái Đất) (2,188 lần vệ tinh) | |
Thể tích | 7,16×1010 km3 (0,066 lần Trái Đất) (3,3 lần vệ tinh) |
Khối lượng | (1,3452±0,0002)×1023 kg (0,0225 lần Trái Đất)[7] |
Mật độ trung bình | 1,8798 ± 0,0044 g/cm³[7] |
1,352 m/s2 (0,14 g) | |
Hệ số mô men quán tính | 0,3414±0,0005[8] (ước lượng) |
2,639 km/s (0,236 lần Trái Đất) (1,11 lần vệ tinh) | |
Đồng bộ (Xem quỹ đạo và tự quay) | |
0 | |
Suất phản chiếu | 0,22[9] |
Nhiệt độ | 93,7 K (-179,5 độ C)[10] |
8,2[11] đến 9,0 | |
Khí quyển | |
Áp suất bề mặt | 146,7 kPa |
Thành phần khí quyển | Tầng bình lưu: 98,4% nitơ (N2) 1,6% methan (CH4) 0,2% hydro (H2)[12] Tầng đối lưu: 95.0% N2 4.9% CH4 |
Titan là vệ tinh ở khoảng cách xa thứ hai mươi hai của Sao Thổ và xa thứ sáu trong nhóm những vệ tinh có kích thước đủ lớn để có hình cầu. Thường được miêu tả như một vệ tinh có những đặc điểm giống hành tinh, Titan có đường kính lớn hơn khoảng 50% so với Mặt Trăng của Trái Đất và có khối lượng lớn hơn 80%. Nó là vệ tinh lớn thứ hai trong Hệ Mặt Trời, sau vệ tinh Ganymede của Sao Mộc, và nếu tính theo đường kính nó còn lớn hơn hành tinh nhỏ nhất, Sao Thủy, (dù chỉ có khối lượng bằng một nửa). Titan là vệ tinh được phát hiện đầu tiên của Sao Thổ, nó được khám phá năm 1655 bởi nhà thiên văn học người Hà Lan Christiaan Huygens.[15]
Titan được cấu tạo chủ yếu gồm các vật liệu băng nước và đá. Mật độ khí quyển dày đặc khiến chúng ta khó tìm hiểu về bề mặt của Titan cho tới khi các thông tin mới được thu thập với phi vụ Cassini–Huygens năm 2004, gồm việc phát hiện ra các hồ hydrocarbon lỏng tại các vùng cực của vệ tinh này. Chúng là những vật thể lỏng lớn, ổn định duy nhất tồn tại trên bề mặt của bất kỳ một vật thể từng biết nào ngoài Trái Đất. Về địa chất, bề mặt vệ tinh này còn trẻ; dù các ngọn núi và nhiều núi lửa băng (dạng phun trào giống núi lửa nhưng thành phần chủ yếu là băng) có thể có đã được phát hiện, bề mặt khá phẳng với chỉ một ít hố va chạm.
Khí quyển của Titan chủ yếu gồm nitơ và khí hậu của nó gồm các đám mây methan và ethan. Khí hậu có gió và các đặc điểm bề mặt do mưa tạo ra tương tự như các đặc điểm trên Trái Đất, như các đụn cát và các dải bờ biển, và, giống như Trái Đất, cũng bị chi phối bởi các hình mẫu thời tiết theo mùa. Với chất lỏng (cả ở trên và dưới mặt đất) và lớp khí quyển nitơ dày, Titan được cho là giống Trái Đất thời nguyên thủy, dù có nhiệt độ thấp hơn. Vì thế vệ tinh này đã được cho là có khả năng thích hợp cho vi khuẩn như một sự sống ngoài Trái Đất hay, ít nhất, như một môi trường hóa học tiền vi sinh vật với nhiều hợp chất hóa học hữu cơ phức tạp. Các nhà nghiên cứu đã cho rằng có thể biển chất lỏng dưới bề mặt hoạt động như một môi trường sinh học.[16][17]