Thành viên:Ctdbsclvn/nháp 1
From Wikipedia, the free encyclopedia
Apollo 7 (11–22 tháng 10 năm 1968) là chuyến bay có người lái đầu tiên thuộc chương trình không gian Apollo của NASA. Sứ mệnh cũng chứng kiến cơ quan này tiếp tục các chuyến bay đưa con người vào vũ trụ kể từ sau vụ hỏa hoạn khiến ba phi hành gia Apollo 1 thiệt mạng trong cuộc thử nghiệm diễn tập cho phi vụ phóng vào ngày 27 tháng 1 năm 1967. Chỉ huy của phi hành đoàn Apollo 7 là Walter M. Schirra, với Donn F. Eisele làm phi công mô-đun chỉ huy và R. Walter Cunningham đảm nhiệm chức vụ phi công mô-đun Mặt Trăng (ông đã được chỉ định vị trí này mặc dù Apollo 7 không mang theo Mô-đun Mặt Trăng).
![]() Apollo 7 đã phát sóng buổi truyền hình trực tiếp đầu tiên trên một phi thuyền có người lái của Mỹ | |
Dạng nhiệm vụ | Chuyến bay có người lái trên quỹ đạo Trái Đất sử dụng CSM (C) |
---|---|
Nhà đầu tư | NASA[1] |
COSPAR ID | 1968-089A (phi thuyền), 1968-089B (S-IVB)[2] |
SATCAT no. | 3486[3] |
Thời gian nhiệm vụ | 10 ngày, 20 giờ, 9 phút, 3 giây |
Quỹ đạo đã hoàn thành | 163[4] |
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |
Thiết bị vũ trụ | Apollo CSM-101 |
Nhà sản xuất | North American Rockwell |
Khối lượng phóng | 36.419 pound (16.519 kg)[5] |
Khối lượng hạ cánh | 11.409 pound (5.175 kg)[6] |
Phi hành đoàn | |
Số lượng phi hành đoàn | 3 |
Thành viên |
|
Tín hiệu gọi | Apollo 7 |
Bắt đầu nhiệm vụ | |
Ngày phóng | 11 tháng 10 năm 1968, 15:02:45 UTC |
Tên lửa | Saturn IB SA-205 |
Địa điểm phóng | Mũi Kennedy, LC-34 |
Kết thúc nhiệm vụ | |
Thu hồi bởi | USS Essex |
Ngày hạ cánh | 22 tháng 10 năm 1968, 11:11:48 UTC |
Nơi hạ cánh | Bắc Đại Tây Dương 27°32′B 64°04′T[7] |
Các tham số quỹ đạo | |
Hệ quy chiếu | Địa tâm |
Chế độ | Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp |
Cận điểm | 227 kilômét (123 nmi)[2] |
Viễn điểm | 301 kilômét (163 nmi)[2] |
Độ nghiêng | 31,6 độ[2] |
Chu kỳ | 89,55 phút[2] |
Kỷ nguyên | 13 tháng 10 năm 1968[8] |
![]() ![]() Từ trái sang phải: Eisele, Schirra, Cunningham |
Ba phi hành gia này ban đầu được chỉ định tham gia chuyến bay có người lái thứ hai trong chương trình Apollo và sau đó trở thành phi hành đoàn dự bị cho Apollo 1. Sau vụ hỏa hoạn Apollo 1, các nhiệm vụ có người lái đã bị đình chỉ trong thời gian điều tra nguyên nhân tai nạn và thực hiện những cải tiến đối với tàu vũ trụ, các quy trình an toàn cũng như tiến hành những chuyến bay thử nghiệm không người lái. Phi hành đoàn rất quyết tâm trong việc ngăn chặn hoả hoạn tái diễn; họ đã dành nhiều thì giờ theo dõi việc xây dựng các mô-đun chỉ huy và dịch vụ Apollo (CSM) cho sứ mệnh. Quá trình huấn luyện vẫn được tiếp tục trong phần lớn khoảng thời gian tạm dừng kéo dài 21 tháng sau thảm họa Apollo 1.
Apollo 7 được phóng lên từ Trạm không quân Mũi Kennedy ở Florida vào ngày 11 tháng 10 năm 1968 và rơi xuống Đại Tây Dương sau mười một ngày. Sứ mệnh đã chứng kiến việc thử nghiệm bao quát đối với CSM và lần phát sóng trực tiếp đầu tiên từ tàu vũ trụ của Mỹ. Bất chấp căng thẳng giữa phi hành đoàn và những người điều khiển mặt đất, nhiệm vụ hoàn toàn thành công về mặt kỹ thuật, giúp NASA tự tin đưa Apollo 8 vào quỹ đạo quanh Mặt Trăng hai tháng sau đó. Một phần vì những căng thẳng này, không ai trong số phi hành đoàn bay vào vũ trụ nữa, mặc dù Schirra từng thông báo trước đó rằng ông sẽ nghỉ việc tại NASA sau chuyến bay. Apollo 7 đã hoàn thành nhiệm vụ thử nghiệm CSM của Apollo 1 trên quỹ đạo Trái Đất tầm thấp và đánh dấu một bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu đưa phi hành gia hạ cánh xuống Mặt Trăng của NASA.