Suy tủy xương
From Wikipedia, the free encyclopedia
Suy tủy xương là một bệnh hiếm gặp do tủy xương và các tế bào gốc tạo máu tại tủy xương bị phá hủy.[2] Bệnh dẫn đến giảm cả ba loại tế bào máu (giảm ba dòng): hồng cầu (thiếu máu), bạch cầu (hạ bạch cầu), và tiểu cầu (xuất huyết giảm tiểu cầu).[3][4] Suy tủy liên quan đến việc các tế bào gốc mất khả năng phát triển thành tế bào máu trưởng thành.
Suy tủy xương | |
---|---|
Khoa/Ngành | Ung thư học, huyết học |
Triệu chứng | Hồng da, mệt mỏi, nhịp tim nhanh bất thường, phát ban, chóng mặt, nhiễm trùng thường xuyên hoặc kéo dài, chảy máu cam, chảy máu nướu răng, chảy máu kéo dài do vết cắt, dễ bị bầm tím hoặc không rõ nguyên nhân,[1] tụ máu |
Yếu tố nguy cơ | Hút thuốc, tiền sử gia đình, bức xạ ion hóa, một số hóa chất, hóa trị liệu trước đó, hội chứng Down. |
Phương pháp chẩn đoán | Kiểm tra tủy xương |
Điều trị | Ghép tủy, hóa trị liệu, trị liệu bức xạ, liệu pháp trúng đích |
Tiên lượng | Trung bình tỷ lệ sống 5 năm 45% |
Dịch tễ | 3,83 triệu (2015) |
Tử vong | 563.000 (2015) |
Bệnh thường xuất hiện ở lứa tuổi thiếu niên đến 20 - 30 tuổi nhưng cũng khá phổ biến ở người già. Bệnh có thể là do di truyền, miễn dịch, hay tiếp xúc với chất hóa học, thuốc hay phóng xạ. Tuy nhiên, khoảng một nửa trường hợp không tìm ra nguyên nhân.[3][4]
Chẩn đoán được bằng sinh thiết tủy xương; bình thường tủy xương có khoảng 30-70% các tế bào gốc tạo máu, nhưng trong suy tủy xương những tế bào này hầu như biến mất và bị thay thế bằng mỡ.[3][4]
Thuốc điều trị đầu tay cho suy tủy xương bao gồm ức chế miễn dịch, thường dùng cả kháng thể kháng lympho hoặc kháng thể chống thymocyte kết hợp với corticosteroid và ciclosporin. Ghép tủy cũng được áp dụng đặc biệt là cho bệnh nhân dưới 30 tuổi mà có người hiến tủy phù hợp.[3][4]
Đây là bệnh gây ra cái chết của Eleanor Roosevelt và Marie Curie.