Lực lượng Vũ trang Ấn Độ
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lực lượng Vũ trang Ấn Độ (Hindi (in IAST): Bhāratīya Saśastra Sēnāēṃ) là lực lượng quân sự đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ quốc phòng và an ninh trên lãnh thổ Ấn Độ. Tổng thống của Ấn Độ là lãnh đạo tối cao (tổng tư lệnh) của các lực lượng vũ trang. Lực lượng Vũ trang Ấn Độ, gồm Lục quân Ấn Độ, Hải quân Ấn Độ và Không quân Ấn Độ, được đặt dưới sự chỉ huy, điều hành trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Lực lượng phục vụ, hỗ trợ gồm có Lực lượng Biên phòng Ấn Độ, Lực lượng Bán vũ trang Ấn Độ và Bộ chỉ huy các Lực lượng Chiến lược.
Lực lượng Vũ trang Ấn Độ | |
---|---|
Bhāratīya Saśastra Sēnāēṃ | |
Biểu trưng Lực lượng Vũ trang Ấn Độ | |
Các nhánh phục vụ | Lục quân Ấn Độ Hải quân Ấn Độ Không quân Ấn Độ |
Sở chỉ huy | New Delhi |
Lãnh đạo | |
Tổng tư lệnh | Tổng thống Droupadi Murmu |
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng | Rajnath Singh |
Tổng Tham mưu trưởng | Đại tướng Bipin Rawat |
Nhân lực | |
Tuổi nhập ngũ | 18[1] |
Cưỡng bách tòng quân | No |
Số quân tại ngũ | 1,408,551[2] (hạng 3 thế giới) |
Số quân dự bị | 1,155,000[3] |
Phí tổn | |
Ngân sách | FY 2016: US$55.9 tỷ (thứ 5 thế giới)[4] |
Phần trăm GDP | FY 2016: 2.5% |
Công nghiệp | |
Nhà cung cấp nội địa | Indian Ordnance Factories Hindustan Aeronautics Limited Bharat Electronics Limited Bharat Earth Movers Limited Bharat Dynamics Limited Mazagon Dock Limited Goa Shipyard Limited Garden Reach Shipbuilders and Engineers Mishra Dhatu Nigam[5] |
Nhà cung cấp nước ngoài | Nga[6] Pháp[6] Israel[6] Vương quốc Anh[7] Mỹ[6] Italy |
Nhập khẩu hàng năm | US$42.9 tỷ (2000–16)[8] |
Xuất khẩu hàng năm | US$314 triệu (2000–16)[8]
Afghanistan Maldives Tajikistan Nepal Bhutan Israel Oman Bangladesh Việt Nam UAE Iran Thái Lan Kazakhstan Turkey Qatar Uzbekistan Saudi Arabia Malaysia Philippines Kyrgyzstan Indonesia |
Bài viết liên quan | |
Lịch sử | Lịch sử quân sự Ấn Độ Quân đội Anh - Ấn QUân đội Quốc gia Ấn Độ |
Quân hàm | Cấp bậc lực lượng vũ trang Ấn Độ |
Tất cả các quân nhân phục vụ trong quân đội của Ấn Độ là những người tình nguyện, mặc dù chính phủ được quyền thực thi chế độ tòng quân bắt buộc khi thấy cần thiết cho việc bảo vệ Ấn Độ. Tuy nhiên, Ấn Độ chưa bao giờ thực thi chế độ tòng quân cưỡng bức, ngay cả trong các cuộc chiến tranh lớn trước đây. Lực lượng Vũ trang của Ấn Độ vẫn duy trì hầu hết cách thức tổ chức trong quân đội đã đước thiết lập bởi quân Anh, song lực lượng vũ trang đã thể hiện được vai trò chiến lược, quan trọng của Ấn Độ, có năng lực và sức mạnh ngày càng tăng sau khi Ấn Độ trở thành quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân công khai, hợp pháp.