Quá trình mở rộng lãnh thổ của Việt Nam
From Wikipedia, the free encyclopedia
Quá trình mở rộng lãnh thổ của Việt Nam bắt đầu từ khoảng thế kỷ 11 đến thế kỷ 19, dân tộc Việt đã mở mang lãnh thổ ra hướng tây, hướng nam và mở rộng chủ quyền trên biển Đông. Phần quan trọng nhất của quá trình này là nam tiến, hướng bành trướng xuống phía nam. Lãnh thổ do người Việt quản lý đạt mức rộng lớn nhất dưới thời nhà Nguyễn. Quá trình mở rộng lãnh thổ của Việt Nam diễn ra trên đất liền lẫn trên biển, trải qua gần một nghìn năm, chịu lực cản rất lớn từ các nước láng giềng. Quá trình mở rộng trải qua nhiều thay đổi, không chỉ lãnh thổ được mở rộng mà còn bao gồm việc mất chủ quyền một số vùng đã chiếm các giai đoạn sau đó, và việc tái chiếm trở lại một số khu vực.
Mở rộng của nước Việt đã tiêu diệt hoàn toàn Chăm Pa,[1] sáp nhập toàn bộ vùng Tây Nguyên,[2][3] chiếm diện tích lớn lãnh thổ Chân Lạp,[lower-alpha 1] và chiếm một phần lãnh thổ của Lào. Sau khi Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, chính quyền Đông Dương đã sắp xếp lại, phạm vi lãnh thổ ngày nay thu hẹp so với trước đó. Biên giới Việt Nam cùng hai láng giềng Lào, Campuchia đã được Pháp vẽ lại và hầu như ổn định cho đến nay.
Lãnh thổ Việt Nam ngày nay có hình chữ S chạy dài từ bắc xuống nam ở phần phía đông của bán đảo Đông Dương, từ Hà Giang tới Cà Mau, diện tích khoảng 331.230,8 km². Khoảng cách từ bắc tới nam là khoảng 1.650 km.[5] Đường bờ biển dài 3.444 km[6] không kể các đảo. Lãnh hải rộng lớn, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý (22,2 km) phạm vi lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, và 200 hải lý (370,4 km) vùng đặc quyền kinh tế. Hai quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa. Đảo lớn nhất là Phú Quốc và hàng nghìn đảo nhỏ khác.