Nọc rắn
From Wikipedia, the free encyclopedia
Nọc rắn hay nọc độc rắn là tuyến chứa các chất độc của các loài rắn độc. Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để bắt đầu sự phân tách thức ăn thành các hợp chất hòa tan, hỗ trợ cho sự tiêu hóa. Ngay cả những cú cắn của rắn không có nọc độc (giống như của cú cắn của bất kỳ động vật nào) đều gây ra tổn thương mô. Nọc rắn là các hỗn hợp phức tạp của các protein, và được lưu trữ trong các tuyến độc ở phía sau đầu. Ở tất cả các loài rắn có nọc, các tuyến này đổ thông qua các ống dẫn vào các răng rỗng hay răng có khía ở hàm trên.
Nọc rắn | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Danh pháp | |||||||||
Ký hiệu | Toxin_1 | ||||||||
Pfam | PF00087 | ||||||||
InterPro | IPR003571 | ||||||||
PROSITE | PDOC00245 | ||||||||
SCOP | 2ctx | ||||||||
OPM family | 55 | ||||||||
OPM protein | 1txa | ||||||||
|
Các protein này có thể là hỗn hợp thuộc nhóm neurotoxin (tác động thần kinh), hemotoxin (tác động hệ tuần hoàn), cytotoxin (tác động tế bào), bungarotoxin (độc tố cạp nia) và nhiều loại độc tố khác có tác động tới cơ thể theo các cách thức khác nhau. Gần như tất cả các loại nọc rắn đều chứa hyaluronidaza, một enzym đảm bảo sự khuếch tán nhanh của nọc. Các loại rắn có nọc sử dụng độc tố hoại máu (hemotoxin) thường có các răng nọc ở phía trước miệng chúng, giúp chúng dễ dàng hơn trong việc tiêm nọc vào nạn nhân của chúng
Đây là một loại vũ khí tấn công hay phòng vệ hữu hiệu của loài rắn được tiến hóa trong nhiều triệu năm đã qua. Nọc độc của rắn là một loại vũ khí chết người, được hình thành trong khoảng thời gian trên 100 triệu năm. Nạn rắn cắn đã cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn người mỗi năm.
Các loài rắn có nọc độc về cơ bản được phân loại trong 2 họ:
- Elapidae – Họ Rắn hổ, bao gồm rắn hổ mang (Naja), rắn hổ mang chúa (Ophiophagus hannah), rắn cạp nong (Bungarus fasciatus), rắn cạp nia (Bungarus spp.), rắn mamba (Dendroaspis spp.), rắn đầu đồng Úc (Austrelaps), rắn biển (Hydrophiinae), và rắn san hô (các chi Leptomicrurus, Micruroides, Micrurus), rắn lá khô (Calliophis).
- Viperidae – Họ Rắn lục, bao gồm rắn lục (Trimeresurus spp.), rắn lục đầu bạc (Azemiops feae), rắn vipe (Viperinae), rắn đuôi chuông (các chi Crotalus, Sistrurus), rắn đầu đồng Mỹ (Agkistrodon contortrix), rắn miệng bông (Agkistrodon piscivorus) và rắn chúa bụi (Lachesis spp.)
Họ thứ ba chứa một số loài rắn răng nọc sau:
- Colubridae – Họ Rắn nước, bao gồm một số loài như rắn cây châu Phi (Dispholidus typus), rắn roi (Ahaetulla spp.), rắn rào (Boiga spp.), mặc dù không phải mọi loài trong họ Colubridae đều là rắn độc.