Mười hai sứ đồ
những môn đệ chính của Chúa Giêsu theo Tân Ước / From Wikipedia, the free encyclopedia
Mười hai Sứ đồ (Hi văn "απόστολος" apostolos, có nghĩa là "người được sai phái", "sứ giả"), còn được gọi là Mười hai Tông đồ hoặc Mười hai Thánh Tông đồ, Mười hai Thánh đồ là những người Do Thái xứ Galilee (10 vị có tên bằng tiếng Aram, 4 vị có tên bằng tiếng Hy Lạp) được tuyển chọn trong số các môn đệ, rồi được Chúa Giê-su sai đi rao giảng Phúc âm cho người Do Thái và các dân tộc khác.[1][2][3][4][5]
- "Ngài gọi các môn đồ đến, chọn mười hai người, gọi là sứ đồ" (Phúc âm Lu-ca 6. 13).
Thuật ngữ "sứ đồ" được tìm thấy trong Tân Ước, cả thảy có 79 lần: 10 lần xuất hiện trong các sách Phúc âm, 28 lần trong sách Công vụ các Sứ đồ, 38 lần trong các Thư tín hữu và 3 lần trong sách Khải Huyền. Trong Hi văn, apostolos (sứ đồ) bắt nguồn từ apostellein, nghĩa là sai đi. Từ apostellein nhấn mạnh đến yếu tố uỷ quyền - từ thẩm quyền và trách nhiệm của người sai phái. Như vậy, sứ đồ là người được uỷ quyền để thực thi một sứ mạng, người ấy sẽ hành động với thẩm quyền đầy đủ nhân danh người sai phái.
Cần biết rằng, trong Tân Ước Chúa Giê-su đã được đề cập đến như là sứ đồ ("...hãy suy kỹ đến tông đồ và vị thượng tế mà chúng ta tin theo, tức là Chúa Giê-su". Hebrew 3. 1), ở đây cũng giải thích rằng Chúa Giê-su vinh hiển và cao trọng hơn Moses.